tóm tắt lịch sử Đảng bộ Huyện Nam Trà My

Phóng to | Thu nhỏ

1. VÙNG ĐẤT VÀ CON NGƯỜI

Trà My là một trong những huyện thuộc vùng núi cao của tỉnh Quảng Nam, nằm ở 15­01713” đến 15018’00” vĩ độ Bắc, 108009’16” đến 108017’58” kinh độ Đông, cách tỉnh lỵ Tam Kỳ 50 km về hướng Tây Nam; phía bắc giáp huyện Tiên Phước và huyện Hiệp Đức, phía nam giáp tỉnh Kon Tum, phía đông giáp tỉnh Quảng Ngãi, phía tây giáp huyện Phước Sơn(1). Diện tích tự nhiên toàn huyện là 164.558 ha.

Địa hình của huyện Trà My phức tạp, nhiều sông suối, địa thế đồi cao đất dốc hiểm trở, độ dốc 250 chiếm trên dưới 80% so với diện tích tự nhiên. Huyện Trà My có ba vùng địa hình khác nhau: vùng núi cao, vùng núi thấp và vùng đồi cao. Vùng núi cao- vùng cao- chiếm 43,062% diện tích toàn huyện với 70.853 ha, là vùng núi hiểm trở nằm về phía Nam huyện, gồm địa bàn các xã: Trà Linh, Trà Nam, Trà Dơn, Trà Vinh, Trà Vân, Trà Cang, Trà Tập và Trà Mai; độ cao trung bình từ 800-1000 m, có độ dốc rất lớn, dốc về phía Nam và thoải dần về phía Bắc. Vùng này có đỉnh Ngọk Linh (2.598 m) là ngọn núi cao nhất tỉnh Quảng Nam. Vùng núi thấp- chiếm 39,962% diện tích toàn huyện, với 60.825 ha nằm ở vùng trung của huyện, gồm các xã: Trà Leng, Trà Dơn, Trà Ka, Trà Giác, Trà Giáp, Trà Bui, Trà Tân, Trà Đốc; độ cao trung bình từ 300 đến 700 m, độ dốc lớn về phía Đông, phía Tây và trũng dần về khu vực trung tâm. Núi cao nhất vùng này là ngọn Hòn Bà (1.347 m). Vùng đồi cao- vùng thấp- chủ yếu là vùng gò đồi, chiếm 19,974% diện tích toàn huyện, với 32.870 ha, nằm ở phía Đông và phía Bắc của huyện, gồm các xã: Trà Giang, Trà Nú, Trà Kót, Trà Đông, Trà Dương và thị trấn Trà My; độ cao trung bình từ 100- 300 m. Với địa hình rừng núi phức tạp, hiểm trở, với vị trí dựa lưng vào Tây Nguyên, nằm ở vùng tiếp giáp giữa đồng bằng Quảng Nam với Quảng Ngãi và vùng núi Kon Tum, Trà My là một địa bàn chiến lược quan trọng, có nhiều thuận lợi trong việc bố trí quốc phòng, xây dựng thành căn cứ địa cách mạng.

Huyện Trà My nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có hai mùa rõ rệt. Mùa khô từ tháng 2 đến tháng 8 và mùa mưa kéo dài từ tháng 9 đến tháng 1 của năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm của huyện là 3.283 mm, phân bổ không đều, tập trung vào các tháng 9, 10, 11, 12. Tháng 2 và tháng 4 thường không có mưa.

Trà My là đầu nguồn quan trọng tạo nguồn nước cho sông Thu Bồn và một số sông ở cánh bắc của tỉnh Quảng Ngãi, như Nước Mèo, Nước Tong, Nước Poa...Trên địa bàn huyện, mạng lưới sông suối khá dày, sông suối chảy xiết và lắm thác ghềnh. Sông Tranh diện tích lưu vực là 10.000 ha, dài 100 km- là con sông lớn nhất huyện. Ngoài ra còn có các con sông quan trọng khác như: sông Trường, sông Leng, sông Là và nhiều con sông, con suối lớn nhỏ. Phần lớn các con sông, suối này đều đổ vào sông Tranh, hình thành những đường nước quan trọng gắn bó mật thiết với đời sống nhân dân. Sông suối ở Trà My còn có tiềm năng lớn về thuỷ điện.

Nhiệt độ trung bình hàng năm ở huyện Trà My là 240C, nhiệt độ cao nhất là 400C, nhiệt độ thấp nhất là 190C; độ ẩm trung bình 80%, độ ẩm cao nhất là 96% và độ ẩm thấp nhất là 68%. Có hai loại gió mùa ảnh hưởng đến khí hậu của huyện là: gió mùa Tây Nam hoạt động từ tháng 4 đến tháng 10 và gió mùa Đông Bắc xuất hiện từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau.

Đất đai của Trà My có nhiều nhóm, gồm: nhóm đất mùn phân bố trên những vùng núi cao; đất vàng đỏ phân bố hầu hết các xã và đất phù sa phân bổ tập trung chính ở các xã Trà Nú, Trà Kót, Trà Giáp, Trà Đốc... Được thiên nhiên ưu đãi, trên đất Trà My có thể trồng được nhiều loại cây khác nhau: lúa, bắp, sắn, khoai, đậu phụng, đậu nành, mía, thuốc lá, trẩu... đặc biệt là sâm Ngọk Linh và cây quế. Ở Trà My, cây quế được trồng nhiều nhất ở các xã Trà Leng, Trà Dơn, Trà Ka, Trà Giáp, Trà Giác, Trà Tập, Trà Mai, Trà Cang, Trà Vân... Do phát triển trong môi trường thích hợp, quế Trà My đạt chất lượng cao, từ lâu được thị trường thế giới ưa chuộng, được gọi bằng nhiều tên: "vua của các loại quế", trước kia và "Cao Sơn ngọc quế" ngày nay. Sâm Ngọk Linh chủ yếu ở xã Trà Linh, chất lượng ngang hàng với nhiều loại sâm nổi tiếng trên thế giới (1).

Huyện Trà My có 87.127 ha rừng tự nhiên. Rừng Trà My có nhiều loại gỗ quý như: lim, chò, gụ, trắc, sến, dỗi...; tre nứa bạt ngàn,... Rừng Trà My đồng thời là nơi sinh sống của nhiều động vật rừng: voi, cọp, gấu, nai, khỉ... Ở các sông suối có nhiều loại cá, cua, ếch, nhái... trong đó đặc biệt là cá niên. Cá niên ở Trà My có những hương vị riêng, khó quên so với cá niên ở một số địa phương khác.

Theo điều tra thăm dò bước đầu, Trà My có nhiều khoáng sản: đồng, niken ở Trà Giáp, thiếc ở Trà Giác, vàng ở Trà Giáp, đá hoa cương ở Trà Mai, nước khoáng nóng ở Trà Bui...

Về giao thông, do đường sông không thuận lợi cho nên đường bộ trở nên rất quan trọng. Tuyến đường ĐT 616 nối Trà My với Tiên Phước, Tam Kỳ (nối với quốc lộ 1 A) là đường giao thông chính của Trà My với ngoài huyện. Trong huyện, ngoài các tuyến đường lớn nối thị trấn Trà My với các xã Trà My- Trà Bồng, Trà My- Tak Pỏ ( Đhac Bỏ), Trà My- Tra Leng, còn có các đường mòn tự khai phá, các đường hành lang xây dựng trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ nên việc đi lại của nhân dân được thuận lợi hơn.

Có thể nói Trà My có núi rừng trùng điệp, dáng núi trẻ khỏe, sông suối chảy xiết. Núi ấy, sông suối ấy với các bản làng, các đường giao thông quấn quýt, gắn bó bên nhau tạo cho huyện một vẻ đẹp hùng tráng, hài hòa. Toàn huyện như một bức hoành tráng mà cảnh sắc chi phối là màu xanh bạc ngàn. Nhắc đến Trà My người ta nghĩ đến Sông Tranh, Sông Trường, đến Ngọk Linh, Ngọk La Dang (Hòn Bà), đến hương vị của quế, đến Tak Pỏ, thị trấn Trà My.

Vào thời kỳ các vua Hùng, Trà My thuộc vùng đất Việt Thường thị. Đến thời kỳ nhà Tần đô hộ nước ta, Trà My thuộc Tượng quận (214 đến năm 205 trước công nguyên), đời nhà Hán thuộc Tượng Lâm ( từ năm 206 đến năm 192 sau công nguyên) và từ năm 192 đến cuối thế kỷ XIV thuộc vương quốc Chămpa.

Vào thời nhà Hồ (1400 - 1407), Hồ Quý Ly đã thành lập 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, trong đó châu Thăng và châu Hoa gồm phần đất từ phía Nam sông Thu Bồn đến Dốc Sỏi của tỉnh Quảng Nam ngày nay. Vùng đất Trà My thuộc châu Thăng.

Vào năm 1471, vua Lê Thánh Tông lập Đạo thừa tuyên Quảng Nam, gồm 3 phủ: Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn, trong đó, phủ Thăng Hoa gồm phần đất Quảng Nam ngày nay, phủ Tư Nghĩa gồm phần đất Quảng Ngãi ngày nay và Hoài Nhơn gồm phần đất Bình Định ngày nay. Vào năm 1510, vua Lê Tương Dực đã đổi Đạo Thừa tuyên Quảng Nam thành trấn Quảng Nam và đến năm 1602, chúa Nguyễn lại đổi trấn Quảng Nam thành Quảng Nam dinh. Năm 1605, chúa Nguyễn thăng huyện Điện Bàn của phủ Triệu Phong (Thuận Hóa) thành phủ và cho nhập vào Quảng Nam dinh. Quảng Nam dinh lúc bấy giờ gồm có 4 phủ: Điện Bàn, Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn. Vùng đất Trà My thuộc phủ Thăng Hoa.

Vào năm Gia Long thứ hai (1803), Quảng Nam dinh chỉ gồm hai phủ Điện Bàn và Thăng Hoa. Đến năm 1806, Quảng Nam dinh được đổi thành trực lệ Quảng Nam dinh, thuộc Kinh sư. Năm 1827, trực lệ Quảng Nam dinh được đổi thành trấn Quảng Nam và đến năm 1832 lại đổi thành tỉnh Quảng Nam. Vùng đất Trà My ngày nay, cho đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, thuộc phủ Tam Kỳ và huyện Tiên Phước(1). Dưới phủ, huyện là tổng, mỗi tổng có từ 5-10 làng.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, ta tiến hành từng bước việc thành lập chính quyền và phân địa giới hành chính ở Trà My. Ngày 19. 3.1947, ta thành lập châu Trà My, gồm cả vùng đất Trà My và Phước Sơn ngày nay. Tháng 10.1948, châu Trà My được tách ra thành hai huyện là Trà My và Phước Sơn.

Nhằm tăng cường sức người, sức của cho kháng chiến, Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng vào đầu năm 1960 chủ trương hợp nhất các huyện miền núi. Thực hiện chủ trương đó, tháng 3.1961, hai huyện Trà My và Phước Sơn được hợp nhất thành huyện Trà Sơn.

Tháng 3.1963, trước yêu cầu ngày càng cao của công tác chỉ đạo miền núi, Tỉnh ủy Quảng Nam chủ trương giải thể hai huyện Trà Sơn, để thành lập các khu. Huyện Trà My bao gồm khu II và khu III. Về sau, bỏ tên gọi khu và gọi là huyện. Khu II là huyện Bắc Trà My ( phần đất phía Bắc sông Tranh ); Khu III là huyện Nam Trà My (phần đất phía Nam sông Tranh ).

Về phía địch sau khi hiệp định Giơnevơ được ký kết- ngày 20.7.1954, chính quyền Sài Gòn đã điều chỉnh lại cơ cấu và địa giới hành chính ở Trà My. Chúng đổi huyện Trà My thành quận Trà My. Ngày 2.3.1959, chúng lại đổi tên quận Trà My thành quận Hậu Đức. Tháng 11.1964, trước sức tấn công của quân và dân ta ngày càng mạnh mẽ, địch buộc phải rút khỏi Trà My, bọn ngụy quyền Hậu Đức phải đóng chi khu quân sự lưu vong ở Phước Lâm (nay thuộc xã Tiên Hiệp, huyện Tiên Phước).

Tháng 6. 1975, sau ngày đất nước thống nhất, huyện Nam Trà My và huyện Bắc Trà My được hợp nhất lại thành huyện Trà My

Ngày 20.6.2003, Chính phủ có Nghị định số 72/2003/ NĐ-CP, chia huyện Trà My thành hai huyện Bắc Trà My và Nam Trà My. Theo đó, huyện Bắc Trà My gồm các xã Trà Đông, Trà Dương, Trà Giang, Trà Nú, Trà Kót, Trà Tân, Trà Đốc, Trà Bui, Trà Giác, Trà Giáp, Trà Ka và thị trấn Trà My; huyện Nam Trà My gồm các xã Trà Don, Trà Leng, Trà Vân, Trà Vinh, Trà Tập, Trà Dơn, Trà Nam, Trà Cang, Trà Mai, Trà Linh.

Về dân số, năm 1971, Trà My có 14.833 người, trong đó, Nam Trà My 7.003 người và Bắc Trà My 7.830 người. Năm 1976, toàn huyện có 16.793 người, 1986 có 36.946 người, năm 1996 có 53.628 người và đến thời điểm chia tách thành hai huyện Nam Trà My và Bắc Trà My là 56.362 người, trong đó Nam Trà My là 19.876 người, Bắc Trà My là 36.386 người. Về dân tộc, đây là một địa bàn cư trú của nhiều thành phần tộc người như: Xêđăng ( bao gồm nhóm tộc người Cadong), nhóm tộc người Bh’noong của dân tộc Giẻ-Triêng, Cor và Kinh.

Nhóm tộc người Cadong của dân tộc Xêđăng chiếm 39,50% dân số toàn huyện, sống chủ yếu ở các xã vùng cao và vùng trung. Các nhóm tộc người còn lại của người Xêđăng chiếm 13,04% dân số toàn huyện, sống rải rác khắp vùng cao, vùng trung và vùng thấp, chủ yếu là ở các xã Trà Nam, Trà Linh, Trà Vân, Trà Tập, Trà Cang, Trà Mai và một số ở các xã Trà Leng, Trà Bui, Trà Đốc, Trà Giáp, Trà Tân.

Người Cor chiếm 6,68% dân số toàn huyện, sống ở các xã vùng thấp. Người Cor thường xây dựng bản làng bên các sườn núi, gần các thung lũng có khả năng trồng lúa nước, chủ yếu ở xã Trà Nú, Trà Kót và một phần xã Trà Giáp.

Người Bh’noong là một nhóm tộc người thuộc dân tộc Giẻ- Triêng, chiếm 3,54% dân số toàn huyện, sống chủ yếu ở xã Trà Leng và một ít ở xã Trà Bui.

Người Kinh chiếm 36,35% dân số toàn huyện, sống chủ yếu ở vùng giáp ranh trung du, đồng bằng và thị trấn Trà My, phần lớn người Kinh sống bằng nghề nông, riêng ở thị trấn sống bằng nghề thủ công và buôn bán nhỏ.

Ngoài ra, trên địa bàn huyện còn có một số đồng bào Mường, Nùng, từ các tỉnh phía Bắc vào sinh sống trong những năm gần đây.

Trước Cách mạng Tháng Tám (1945), tình hình kinh tế- xã hội của đồng bào các dân tộc thiểu số Cadong, Xêđăng, Cor, Bh’noong ở Trà My ít có sự chuyển biến. Kinh tế sản xuất chính của đồng bào là kinh tế nương rẫy. Do công cụ lao động quá thô sơ, kỹ thuật canh tác lạc hậu, hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên nên nghề nương rẫy không cung cấp đủ lương thực cho nhân dân. Ngoài nương rẫy, đồng bào còn đánh bắt, hái lượm và chăn nuôi, song nhìn chung đời sống của đồng bào vẫn thấp kém, bấp bênh. Nghề thủ công đã xuất hiện, song mang tính chất gia đình, thường là đồng bào tự làm các dụng cụ sinh hoạt gia đình, nhất là các dụng cụ đan lát bằng mây tre. Nhiều nơi đã biết làm các dụng cụ bằng đất nung (nồi, hủ), trồng gai dệt đồ, trồng bông dệt vải, rèn sửa công cụ sản xuất thường dùng...

Về văn hóa, nhà ở của người Cadong, Xêđăng làm theo kiểu nhà gia đình cá thể, nhà của người Bh’noong, Cor và một số đồng bào Cadong ở xã Trà Leng và xã Dơn làm theo kiểu nhà dài. Đồ trang sức của đồng bào thông dụng là vòng đồng, vòng bạc... Trên các tấm đồ, trên các chiếc váy ( thổ cẩm) của phụ nữ có trang trí nhiều hoa văn mang màu sắc sặc sỡ. Mỗi dân tộc thiểu số đều có tiếng nói riêng nhưng cùng ngữ hệ Môn- Khơme.

Kho tàng văn học dân gian của các dân tộc thiểu số trong huyện rất phong phú, đa dạng, có nhiều thể loại, đề tài, phản ánh được một chừng mực nhất định về điều kiện sinh hoạt, con người, địa phương.

Đồng bào các dân tộc thiểu số huyện Trà My có tình yêu núi rừng, tinh thần yêu nước và căm thù giặc sâu sắc; có những phong tục tập quán đẹp như: lao động cần cù, tương thân tương ái, bình đẳng và thượng võ, nhưng cạnh đó cũng có những tập tục lạc hậu, có hại đến sản xuất và đoàn kết dân tộc, nhất là tục “ăn đầu trả đầu” đã tồn tại một thời gian dài trong lịch sử. Bản tính của đồng bào các dân tộc thiểu số Trà My là thật thà, mọi việc phải thấy, phải nghe và qua thực tế kiểm nghiệm mới tin tưởng.

Về xã hội, làng của người Cadong, Xêđăng, Cor, Bh’noong mang tính chất khép kín. Mỗi làng là một đơn vị xã hội. Sự phân hóa giai cấp ở đây chưa diễn ra rõ rệt. Dựa vào điều kiện kinh tế gia đình có thể phân trong xã hội các tộc người thành ba hạng: hạng người dư ăn, hạng người đủ ăn, và hạng người thiếu ăn.

Nói chung, xã hội các dân tộc thiểu số ở huyện Trà My vào thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 đang ở vào một giai đoạn kinh tế, văn hóa và xã hội còn ở mức thấp. Ngày nay, dưới ánh sáng đường lối, chính sách dân tộc của Đảng, được sự hỗ trợ to lớn của cả tỉnh, cả nước, nhân dân các dân tộc thiểu số huyện Trà My đang ra sức phấn đấu xây dựng quê hương Trà My ngày càng giàu đẹp. Xã hội và con người Trà My đang có nhiều cải biến; bản lĩnh, bản sắc của các dân tộc anh em trong huyện ngày càng được phát huy.

2. TRUYỀN THỐNG ĐẤU TRANH YÊU NƯỚC TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945

Vào nửa cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp đã tiến hành xâm lược và đặt ách thống trị của chúng trên đất nước ta. Từ 1897- 1914, chúng tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ nhất, từ năm 1919- 1929, tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ hai. Triều đình nhà Nguyễn ngày càng tỏ ra bất lực, đầu hàng và trở thành công cụ tay sai của giặc để đàn áp, bóc lột nhân dân ta. Trong lúc đó, phong trào đấu tranh yêu nước chống thực dân Pháp và tay sai của nhân dân ta liên tục nổ ra trên cả nước.

Trong những năm 1885- 1887, nhân dân khắp nơi trong nước đã hưởng ứng dụ Cần vương của vua Hàm Nghi. Ở Quảng Nam, các sĩ phu đã thành lập Nghĩa hội, hô hào nhân dân đứng dậy phò vua cứu nước. Căn cứ địa đầu tiên của Nghĩa hội là Sơn phòng Dương Yên ( nay thuộc xã Trà Dương) .

Tháng 8.1885, Nghĩa hội Quảng Nam do Tiến sĩ Trần Văn Dư làm Hội chủ đã tổ chức Sơn phòng Dương Yên thành trung tâm chỉ huy phong trào Cần vương cứu nước ở Quảng Nam. Và từ vùng căn cứ Dương Yên, một mũi quân lớn của Nghĩa hội tiến ra đánh chiếm tỉnh thành Quảng Nam đóng tại làng La Qua, Điện Bàn. Đến tháng 12.1885, sau khi Hội chủ Trần Văn Dư bị sát hại, quân Pháp mới chiếm lại Sơn phòng Dương Yên.

Năm 1902, quân Pháp đóng đồn Trà My ( nay thuộc xã Trà Giang); rồi từ đồn Trà My chúng triển khai đóng một loạt các đồn bót khác ở vùng trung và vùng cao. Lưc lượng địch ở đồn Trà My gồm khoảng một trung đội lính khố xanh đóng giữ, dưới sự chỉ huy của một một sĩ quan người Pháp. Ngoài ra còn có các đồn như Bà Bình, Phương Xá, Gò Nha, Trà Vin, Tak Chanh, mỗi đồn có một tiểu đội thường trực. Các đồn này đặt dưới sự chỉ huy chung của viên sĩ quan Pháp ở đồn Trà My. Khi cần một lực lượng lớn để đàn áp phong trào đấu tranh của đồng bào các dân tộc thiểu số, địch có thể huy động lực lượng ở đồn giám binh Hội An hoặc ở nơi khác đến để chi viện

Song song với việc thiết lập hệ thống đồn bót, thực dân Pháp còn tổ chức bộ máy chính quyền cấp cơ sở, từng bước đặt ách thống trị của chúng lên đồng bào các dân tộc thiểu số. Chúng bắt buộc, hoặc thông qua thương lái, dùng tiền bạc mua chuộc người ra làm chánh tổng, cai đốc, quản man... Mỗi làng chúng đặt một chủ làng. Mỗi vùng đặt một chánh tổng. Chúng đồng thời sử dụng số thương lái buôn bán ở Trà My để nắm dân, tiến hành thu thuế, đôn phu và đôn lính; cai trị bóc lột nhân dân dưới các hình thức đàn áp, mua chuộc dụ dỗ..

Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, cùng với sự thấp kém về kinh tế, thiên tai mất mùa, ốm đau, dịch bệnh hoành hành..., đồng bào các dân tộc thiểu số Trà My chịu biết bao cảnh lầm than, cơ cực. Đồng bào thường bị thực dân Pháp bắt đi xâu làm đường giao thông, gùi cõng hàng hoá phục vụ cho các cuộc hành quân của quân Pháp. Tuy nhiên, không cam chịu khuất phục trước kẻ thù, nhân dân các dân tộc thiểu số Trà My đã phát huy tinh thần thượng võ, liên tục vùng lên chống quân xâm lược, bảo vệ núi rừng, bảo vệ cộng đồng. Và cũng từ đó tinh thần yêu nước của đồng bào ngày càng được khơi dậy mạnh mẽ hơn lên.

Năm 1905, tên sĩ quan Pháp- trưởng đồn Trà My đã chỉ huy bọn lính đồn trú hành quân lên vùng Mò O (xã Trà Mai). Chúng đốt làng Tu Ổi, giết người, bắt giam 4 già làng và cướp bóc tài sản của nhân dân. Căm thù giặc, đồng bào dân tộc Cadong ở Mò O đã tổ chức lực lượng kéo xuống bao vây đồn Trà My, uy hiếp tinh thần quân địch đồn trú tại đây.

Năm 1910, trong một dịp tổ chức lễ hội đâm trâu huê, Thăng Mậu (Đ’ThănKmăut) đã hô hào đồng bào Cor ở vùng thấp Trà My nổi dậy chống Pháp và quyết tâm diệt cho được tên Bang Uyển- một tên bang tá gian ác ở Trà My. Các làng đã gấp rút chuẩn bị lương thực, vũ khí. Trai tráng của 32 nóc trong vùng luyện tập võ nghệ, chờ ngày khởi nghĩa.

Ngày 21.8.1910, một ngàn nghĩa quân từ Nước Hai xuống Thanh Trúc rồi tiến lên Phương Xá. 2 giờ ngày hôm sau, nghĩa quân phóng lửa đốt đồn Phương Xá. Huỳnh An Đạt - phó đồn Phương Xá, chạy đi báo với Bang Uyển, lập tức Bang Uyển đi báo với bọn chỉ huy đồn Trà My. Chiều ngày 22.8, 150 lính tập đồn Trà My hành quân xuống Phương Xá. Ngày 23.8, toán lính này bị nghĩa quân đánh phục kích, Bang Uyển bị trúng tên và chết ngay trên yên ngựa.

Đến ngày ngày 25.8, giám binh Quảng Nam huy động 2 trung đội lính khố xanh ở Hội An và một trung đội lính giản ở Vĩnh Điện kéo lên Trà My. Sang ngày 26.8, Thăng Mậu cho nghĩa quân mai phục sẳn ở khu vực cầu Dung, làng Dương Yên, tiêu diệt toàn bộ lính giản. Hai trung đội lính tập đến sau cũng bị nghĩa quân phục đánh, phải rút lui. Ngày 27.8, một trung đội lính tập do một viên đại uý Pháp chỉ huy từ Tam Kỳ kéo lên tiếp ứng nhưng bị nghĩa quân phục kích, đánh tiêu diệt gần một nửa số lính nên phải rút lui. Về phía nghĩa quân tuy thương vong nhiều, nhưng nhân đà chiến thắng, tiến lên vây đồn Trà My. Lúc bấy giờ đồn Trà My bỏ trống. Thăng Mậu ngại quân địch dùng kế nghi binh nên lui quân về Nước Hai. Trên đường về, nghĩa quân bị quân Pháp từ Quảng Ngãi ra, Tam Kỳ lên hội quân bao vây. Trong tình thế đó, Thăng Mậu đã cho phân tán lực lượng vào rừng để tránh địch, bảo tồn lực lượng.

Cuộc khởi nghĩa Thăng Mậu là một biểu hiện của tinh thần chiến đấu gan dạ chống thực dân Pháp và bọn tay sai của đồng bào các dân tộc thiểu số Trà My vào đầu thế kỷ XX

Năm 1920, đồng bào Cor ở Nú và Zút bị thực dân Pháp bắt làm xâu trên các đoạn đường từ Phường Tổng, Xuân Bình, Tứ Mỹ... bị cai xâu đánh đập, hành hạ tàn nhẫn. Quá căm tức, đồng bào tổ chức mai phục giết chết một tên cai xâu vừa là chánh tổng khét tiếng gian ác. Từ đó bọn cai xâu coi làm đường ở đây không còn dám đánh đập ngang ngược đồng bào đi làm xâu.

Năm 1932, nhằm chống lại âm mưu lập tề và bắt xâu của thực dân Pháp, đồng bào dân tộc Xêđăng ở làng Mường Chán thuộc vùng cao Trà My đã tổ chức lực lượng đánh đồn Tak Chanh.

Nguyên vào những năm đầu thế kỷ XX, một số đồng bào Xêđăng ở làng Loong Him thuộc vùng cao bắc Kon Tum bị thực dân Pháp khủng bố khốc liệt phải lánh qua vùng cao của Trà My để sinh sống. Họ lập nên làng Mường Chán. Nhưng ở Mường Chán, đồng bào vẫn chưa có được cuộc sống bình yên vì bọn lính tập ở đồn Tak Chanh thường xuyên đến dọa dẫm, tìm cách lập tề, bắt xâu.

Để đánh đồn Tak Chanh, nhân dân làng Mường Chán thành lập một đội nghĩa dũng gồm hơn 10 thanh niên do Nok Non chỉ huy. Đội nghĩa dũng phục kích, chém 7 tên địch ở đồn này, khiến cho bọn còn lại hoảng sợ bỏ chạy về đồn Trà My. Cũng kể từ đó thực dân Pháp bỏ đồn Tak Chanh, không dám đưa quân lên đóng lại.

Vào những năm 1936 - 1938, ở Tây Nguyên và dọc nam Trường Sơn nổ ra phong trào "Nước Xu" hay "Nước Xu đồng". Nhân dân các dân tộc thiểu số huyện Trà My, dưới sự lãnh đạo của ông Điền, ông Đúc, đã nổi dậy hưởng ứng phong trào này, tổ chức nhiều cuộc đánh quân Pháp sôi nổi.

Ông Điền, ông Đúc là hai anh em ruột sinh trưởng trong một gia đình giàu, có thế lực ở Non Dắt. Cha hai ông là người Kinh, tên Quế, quê ở Quảng Ngãi. Mẹ là người Xêđăng quê ở Non Dắt. Ông Điền, ông Đúc sinh ra và lớn lên trên quê mẹ, sống và lao động theo phong tục tập quán của người Xêđăng. Năm 1937, khi phong trào "Nước Xu" lan ra nhiều tỉnh Tây Nguyên thì từ Trà My, hai ông đã băng rừng, vượt suối lên Kon Tum, liên hệ với Kay Riêm và Kay Tum để đổi "nước phép" mang về cho nhân dân trong vùng, qua đó dấy lên phong trào chống Pháp sôi nổi ở Trà My và các vùng lân cận(1). Từ cuộc đời thường xuyên bị áp bức bóc lột, còng lưng đi xâu, đến đây thêm một lần nữa nhân dân các dân tộc thiểu số Trà My lại nổi dậy chống thực dân Pháp với khí thế mạnh mẽ, hào hùng. Dưới sự lãnh đạo của các thủ lĩnh tiến bộ ở địa phương, cuối năm 1937, đồng bào ở các làng thuộc các xã Trà Nam, Trà Linh, Trà Cang, Trà Mai...ngày nay đã rào làng, làm lễ cúng thần linh và tổ chức lực lượng nổi dậy đánh Pháp.

Đầu năm 1938, thực dân Pháp mở một cuộc hành quân lớn lên vùng cao Trà My. Đoán được hướng hành quân của địch, các thủ lĩnh chỉ huy cuộc chiến đấu đã cho nghĩa quân mai phục tại Dốc Dược và đợi đến lúc toàn bộ cánh quân địch lọt vào trận địa mới ra lệnh tấn công. Nghĩa quân dùng cung, nỏ bắn tới tấp vào đội hình quân Pháp. Chúng đánh trả song vô hiệu. Kết quả, đã loại khỏi vòng chiến đấu nhiều tên địch, trong đó có một tên sĩ quan chỉ huy Pháp bị bắn chết. Quân địch phải bỏ dở cuộc hành quân, tạm lui về Nước Xa.

Chiến thắng Dốc Dược là một trận thắng lớn của phong trào "Nước Xu" ở Trà My, bẻ gãy mũi tiến công của địch lên vùng cao, góp phần nâng cao niềm tin là đồng bào các dân tộc thiểu số ở Trà My có đủ khả năng đánh thực dân Pháp bằng vũ khí thô sơ.

Sau trận Dốc Dược, thực dân Pháp tăng quân, thực hiện cho bằng được cuộc hành quân thọc sâu lên vùng cao Trà My. Tên Đơ Luxtanh, trưởng đồn Bót Xít (Bến Giằng) được viên công sứ Pháp ở Hội An gọi về giao nhiệm vụ lên gấp Trà My tìm cách bắt ông Điền, ông Đúc. Nhân dân các dân tộc thiểu số ở Trà My lại tiếp tục cuộc chiến đấu. Quân Pháp tiến lên được một số làng vùng cao nhưng rất vất vả.

Tại Non Dắt, địch xảo quyệt dùng một tên thương lái trước đó có quen biết ông Điền, ông Đúc lần mò vào núi tìm đến nơi hai ông đang trú, dụ dỗ nếu hai ông ra hàng thì sẽ được thực dân Pháp tha bỗng. Vì lầm mưu giặc, ông Điền, ông Đúc đã bị thực dân Pháp bắt và xử bắn ngay tại Non Dắt. Giết được hai anh em ông Điền, ông Đúc, thực dân Pháp thẳng tay đàn áp nhân dân địa phương. Song đồng bào các dân tộc thiểu số Trà My vẫn anh dũng đứng dậy, kiên quyết chống đánh địch, giữ đất, giữ rừng, giữ cuộc sống yên lành và tự do của mình.

Mùa xuân năm 1938, dự kiến được tình hình quân Pháp từ Non Dắt sẽ đến càn quét làng mình, đồng bào Cadong ở làng Tu Du, dưới sự chỉ huy của Xen Đung, chủ động bố trí lực lượng đánh địch, đánh địch từ xa, khi chúng chưa đến làng . Tất cả dân làng đều được huy động vào trận đánh. Người già, phụ nữ, trẻ em vót chông, làm chướng ngại, cắm chông, đặt bẫy quanh làng. Riêng lực lượng thanh niên thì phục kích tại Non Đoan, nơi địch phải đi qua để vào làng. Những thanh niên thạo tên, ná, tích cực đánh trận này là Prồng, Dày Den, Niếu, Nuôn...

Đúng như dự kiến của làng Tu Du, bọn lính Pháp từ Non Dắt xuống Tak Chanh rồi tiến về Non Đoan. Tại đây, chờ địch lọt hết vào trận địa đã bày sẵn, theo lệnh của Xen Đung quân khởi nghĩa tấn công từ hai bên núi. Bị đánh bất ngờ trong thế trận không thấy bóng dáng và phương hướng tấn công của đối phương, địch hốt hoảng bắn đạn lung tung rồi tháo chạy về đồn Trà My.

Có thể nói tình yêu núi rừng, lòng khát khao độc lâp, tự do đã bồi đắp cho nhân dân các dân tộc Trà My truyền thống yêu nước nồng nàn và tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất. Các cuộc nổi dậy chống thực dân Pháp và phong kiến tay sai của nhân dân Trà My vì thế đã liên tiếp nổ ra, tiêu biểu là khởi nghĩa Thăng Mậu và phong trào “Nước Xu”. Tuy các cuộc khởi nghĩa lần lượt bị thất bại nhưng đây là điều kiện thuận lợi để nhân dân các dân tộc huyện Trà My vươn lên tiếp thu ánh sáng và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

1. NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC TRÀ MY CHÀO MỪNG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM THÀNH CÔNG VÀ BƯỚC ĐẦU XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ MỚI (8. 1945 -10. 1948)

Ngày 9.3.1945, phát xít Nhật tiến hành đảo chính thực dân Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Ngày 12.3.1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” làm dấy lên cao trào kháng Nhật, cứu nước, thúc đẩy tình thế cách mạng trong nước mau chóng chín muồi.

Từ ngày 13 đến ngày 15.8.1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng đã họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) quyết định phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Ngày 16.5.1945, Đại hội quốc dân cũng họp tại Tân Trào. Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi đồng bào cả nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” (1). Cao trào khởi nghĩa giành chính quyền cuồn cuộn dâng lên khắp ba miền Bắc, Trung, Nam

Ở Quảng Nam, từ đêm 17 rạng ngày 18.8.1945, tỉnh lỵ Hội An và một số phủ, huyện đồng bằng, như Điện Bàn, Duy Xuyên, Quế Sơn, Thăng Bình, Tam Kỳ, Tiên Phước... tiến hành khởi nghĩa. Sáng sớm ngày 18.8.1945, cuộc khởi nghĩa ở tỉnh lỵ Hội An giành được thắng lợi. Quảng Nam trở thành một trong 4 tỉnh khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở tỉnh lỵ đầu tiên trong cả nước.

Khi chính quyền ở các phủ, huyện về tay nhân dân, Ủy ban bạo động khởi nghĩa tỉnh phái một trung đội lực lượng vũ trang do đồng chí Hồ Tuân chỉ huy và đồng chí Nguyễn Tuân là cán bộ chính trị đi lấy đồn Trà My. Ngày 22. 8, chiếc xe camnhong, cắm cờ đỏ sao vàng, chở lực lượng vũ trang của ta từ Hội An lên Vĩnh Điện, theo đường Quốc lộ 1A vào Tam Kỳ. Đến Tam Kỳ thì rẽ lên đường Trường Xuân - An Lâu - Trà My. Ba giờ chiều xe của ta đến trước đồn Trà My. Đồng bào các làng Mậu Cà, Trà My, Dương Hòa, Mậu Long... được tin Việt Minh lên, lại thấy cờ, xe và lực lượng vũ trang của ta nên kéo đến sân đồn rất đông.

Bọn bảo an binh giữ đồn Trà My nghe tin Việt Minh đã khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi khắp nơi, khi lực lượng ta đến, chúng sắp sẵn đội ngũ chỉnh tề, mang súng chúc nòng xuống đất, đón ta vào tiếp thu đồn. Quản Chiểu - trưởng đồn Trà My - đã giao nộp tất cả vũ khí, tài liệu cho ta. Lá cờ quẻ ly trước sân đồn bị ném xuống và lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên trong niềm phấn khởi của nhân dân.

Sáng ngày 23.8.1945, ta tổ chức một cuộc mít tinh tại sân đồn Trà My. Đồng bào đến dự chật cả sân đồn. Đồng chí Nguyễn Tuân đọc và giải thích 10 chính sách của Mặt trận Việt Minh, sau đó làm lễ ra mắt Ủy ban lâm thời quản lý đồn Trà My. Đồng chí Nguyễn Tuân được trên chỉ định làm Chủ tịch lâm thời với sự giúp việc của Quản Chiểu. Sau đó, ông Dinh ở Trà My, ông Đinh Đen ở Mang Tra được bổ sung vào Uỷ ban lâm thời.

Đồn Trà My về tay lực lượng cách mạng. Nhân dân các dân tộc Trà My được hoàn toàn giải phóng. Bắt đầu từ đó, đồng bào các dân tộc thiểu số Cadong, Xêđăng, Cor, Bh’noong ở Trà My từng bước biết Đảng, hiểu Đảng, tin Đảng, chiến đấu bảo vệ làng bản và xây dựng quê hương dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Ngày 2.9.1945, tại vườn hoa Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Người trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và thật sự đã trở thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” (1). Đồng thời ngay từ cuối năm 1945, trong lúc thực dân Pháp đang âm mưu trở lại xâm lược đất nước ta một lần nữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã tích cực chỉ đạo soạn thảo Hiến pháp và chuẩn bị tiến hành cuộc Tổng tuyển cử tự do trong cả nước để bầu ra Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà.

Ngày 6.1.1946, được chọn làm ngày bầu cử Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Ở Quảng Nam, từ cuối năm 1945, Tỉnh uỷ và Mặt trận Việt Minh tỉnh đã cử hai đoàn cán bộ lên miền núi giúp đồng bào các dân tộc thiểu số vận động, giới thiệu ứng cử viên và tổ chức bầu cử. Đoàn cán bộ Trà My- Phước Sơn do đồng chí Hồ Tuân làm trưởng đoàn. Đoàn cán bộ Bến Hiên- Bến Giằng do đồng chí Trần Tường làm trưởng đoàn. Thông qua đồng bào các dân tộc thiểu số ở địa phương, hai đoàn đã giới thiệu hai đại biểu ra ứng cử đại biểu Quốc hội: ông Đinh Tựu- người dân tộc Cor ở Trà My (nay thuộc xã Trà Nú) và ông Cónh Ngươl- người dân tộc Cơ Tu ở Bến Giằng.

Tháng 12.1945, Tỉnh uỷ, Uỷ ban Nhân dân cách mạng và Mặt trận Việt Minh tỉnh mời hai ông Đinh Tựu và Cónh Ngươl về Hội An, tổ chức gặp gỡ trao đổi. Sau đó, ông Đinh Tựu được đề cử bổ sung bầu vào Quốc hội, còn Cónh Ngươl được đề cử bầu vào Hội đồng nhân dân tỉnh. Kết quả, ông Đinh Tựu được bầu với số phiếu 84,6 %, trở thành người đầu tiên của Trà My và là người dân tộc thiểu số đầu tiên của tỉnh Quảng Nam được bầu vào Quốc hội.

Tháng 2.1946, nhân dân các dân tộc Trà My tham gia cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Đồng bào chọn và bầu các đồng chí Hoàng Châu Ký, Lê Thị Kinh, Bùi Biên, Nguyễn Sang vào Hội đồng nhân dân tỉnh.

Tháng 6.1946, nhằm thực hiện cuộc vận động cách mạng ở vùng các dân tộc ít người và xây dựng miền tây thành hậu phương của cuộc kháng chiến, theo quyết định của Tỉnh ủy Quảng Nam, Phòng Liên lạc Quốc dân thiểu số tỉnh được thành lập và cử các đoàn cán bộ miền tây xây dựng các phòng liên lạc quốc dân thiểu số ở các vùng.

Tháng 12.1946, Phòng Liên lạc quốc dân thiểu số Trà My hình thành, gồm 12 cán bộ: Phan Trấp, Hà Văn Đổng, Trương Phú Xuân, Phạm Kiết, Nguyễn Châu Quế, Phạm Thành Hiệu( Hai Non), Huỳnh Cẩn, Ngô Dinh, Đinh Đen, Nguyễn Mục, Nguyễn Lang và Nguyễn Tắc do đồng chí Phan Trấp phụ trách. Về sau tỉnh tăng cường thêm bốn cán bộ là Lê Mục, Phan Khắc Hữu, Nguyễn Thị Tú Cẩm, Hồ Thị Chí Vân. Lúc ít nhất, Phòng Liên lạc quốc dân thiểu số Trà My có 12 người, lúc cao nhất phòng có 23 người.

Với lực lượng cán bộ như trên, phần lớn còn rất trẻ, Phòng Liên lạc quốc dân thiểu số Trà My đã thành lập 3 đoàn công tác, mỗi đoàn 4 cán bộ. Đoàn vùng cao gồm: Phạm Thành Hiệu, Lê Mục, Nguyễn Châu Quế, Ngô Dinh. Đoàn vùng trung gồm: Pham Kiết, Phạm Hành, Trương Phú Xuân, Nguyễn Thị Tú Cẩm. Đoàn vùng thấp gồm: Huỳnh Cẩn, Nguyễn Tắc, Nguyễn Lang, Hồ Thị Chí Vân.

Phòng Liên lạc quốc dân thiểu số Trà My chọn nhà thương ( trạm xá) ở đồn Trà My làm nơi đóng cơ quan. Từ đây, các đoàn công tác tổ chức các đợt công tác tuyên truyền vận động cách mạng ở vùng đồng bào Cor, Cadong, Xêđăng và Bh’noong.

Nhờ có đội ngũ cán bộ trẻ, đầy nhiệt tình cách mạng, có tổ Đảng làm nòng cốt, ngay từ đầu Phòng Liên lạc quốc dân thiểu số Trà My đã hoạt động sôi nổi. Phát huy truyền thống đấu tranh bảo vệ núi rừng của đồng bào trước đây và những tình cảm tốt đẹp của đồng bào trong và sau những ngày hào hùng cách mạng Tháng Tám, đồng thời vận dụng sáng tạo chính sách dân tộc của Mặt trận Việt Minh, chủ trương của Tỉnh ủy về miền núi, Phòng Liên lạc quốc dân thiểu số Trà My liên tục tuyên truyền, giác ngộ cách mạng cho đồng bào các dân tộc thiểu số ở địa phương.

Nội dung vận động cách mạng của Phòng Liên lạc quốc dân thiểu số Trà My lúc bấy giờ như sau:

- Tuyên truyền đường lối và chính sách dân tộc của Đảng và Mặt trận Việt Minh; vận động đồng bào các dân tộc thiểu số tham gia Mặt trận Việt Minh, theo Bác Hồ bảo vệ độc lập, tự do, chống đế quốc xâm lược.

- Vận động đoàn kết các dân tộc, đoàn kết giữa người Kinh và người dân tộc thiểu số; tổ chức các buổi lễ ăn thề đoàn kết ở từng làng, từng xã để nhân dân tự xóa bỏ các hiềm khích cũ, bảo vệ đất nước.

- Tuyên truyền, vận động xây dựng chính quyền cách mạng ở thôn, xã, tổng, chuẩn bị cơ sở cho công việc thành lập châu Trà My và chính quyền cách mạng của châu.

Để thực hiện tốt cuộc vận động, Phòng Liên lạc quốc dân thiểu số Trà My phân công cán bộ về công tác tận các làng, từ vùng thấp, vùng trung đến vùng cao. Vượt qua các khó khăn, gian khổ: bệnh tật, đời sống, phong tục tập quán..., các đồng chí được phân công bám sát dân, len lỏi rừng này qua núi nọ, thực hiện cùng ăn, cùng ở, cùng làm với đồng bào, tạo những tình cảm tốt đẹp để từ đó vận động và phát động phong trào cách mạng rộng rãi trong nhân dân.

Qua một thời gian hoạt động tích cực- từ tháng 12.1946 đến tháng 3.1947, Phòng Liên lạc quốc dân thiểu số Trà My đã lập những thành tích đáng phấn khởi.

Công tác xây dựng chính quyền cách mạng thôn xã, được triển khai mau chóng và khá thuận lợi nhờ sự ủng hộ nồng nhiệt của nhân dân, nhất là ở vùng thấp. Nhiều đơn vị thôn, xã được tổ chức. Đơn vị thôn lập dựa theo làng cũ của đồng bào. Đơn vị xã được xây dựng theo tổng cũ của thực dân Pháp trước đây. Uỷ ban thôn, xã gồm 3 người: một Chủ tịch, một phó Chủ tịch và một ủy viên thư ký. Về tên gọi, thôn lấy theo tên làng cũ, xã đặt theo tên núi chính, tên con suối thân thuộc với đồng bào.

Kết quả, Phòng Liên lạc quốc dân thiểu số Trà My đã thành lập được chính quyền các xã: Trà Tak Nú, Trà Tak Zút, Trà Tak Poa, Trà Ngok Tu, Trà Tak Rây, Trà Tak Bền, Trà Kiếp Cang, Trà Ngok Tập, Trà Tak Leng, Trà Tak Pui..

Cuộc vận động đoàn kết dân tộc đạt được những kết quả đáng phấn khởi và tiếp tục phát triển. Với thắng lợi to lớn của cách mạng Tháng Tám và sự hoạt động không mệt mỏi của các đoàn cán bộ của Phòng Liên lạc quốc dân thiểu số Trà My, nhân dân các dân tộc thiểu số ở Trà My bước đầu có được những tình cảm tốt đẹp về Bác Hồ, về Mặt trận Việt Minh. Đồng bào các dân tộc Cadong, Xêđăng, Cor, Bh’noong... đồng lòng theo Bác Hồ kháng chiến. Lễ ăn thề đoàn kết được tổ chức và có tác dụng rất lớn trong vấn đề xây dựng khối đoàn kết giữa người Kinh và người các dân tộc thiểu số, giữa các dân tộc anh em trên rừng núi Trà My.

Những vụ "ăn đầu trả đầu" từng tồn tại trong một thời gian dài đến nay dừng lại. Đồng bào các dân tộc anh em chung sống hòa thuận, đoàn kết chung quanh Mặt trận Việt Minh và chính quyền cách mạng. Chính thành công của cuộc vận động đoàn kết dân tộc và cuộc vận động thành lập chính quyền thôn, xã là cơ sở quan trọng cho việc thành lập châu Trà My và Ủy ban hành chính châu Trà My sau này.

Tháng 1.1947, đồng bào dân tộc Cor ở vùng thấp Trà My tổ chức trọng thể đại hội đoàn kết các dân tộc thiểu số. Thời gian đại hội là một ngày một đêm, dưới sự chủ trì của Phòng Liên lạc quốc dân thiểu số Trà My. Dự đại hội có các đại biểu của ủy ban và đoàn thể các thôn, xã. Đại biểu các dân tộc thiểu số về dự đại hội mặc đẹp và mang theo những trang sức đẹp nhất của dân tộc mình.

Đại hội nghe đại diện Phòng Liên lạc quốc dân thiểu số Trà My báo cáo về chính sách dân tộc của Mặt trận Việt Minh, về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đại hội kêu gọi đồng bào các dân tộc phát huy truyền thống đoàn kết, tương trợ; làng dư ăn, làng đủ ăn giúp làng thiếu ăn, người khá giúp kẻ khó... Đại hội nêu quyết tâm sẽ làm hết sức mình để xóa bỏ các hiện tượng hiềm thù dân tộc xảy ra trước đây, xóa bỏ nạn " >ăn đầu trả đầu", ra sức vun đắp khối đoàn kết dân tộc, tích cực tăng gia sản xuất, đóng góp sức người, sức của vào công cuộc kháng chiến kiến quốc.

Theo tập quán địa phương, Đại hội tổ chức lễ đâm trâu và ăn thề đoàn kết. Trong lễ ăn thề đoàn kết, các đại biểu cùng uống rượu hòa máu (máu trâu, heo, gà trống...) để biểu hiện sự gắn bó cùng chung dòng máu anh em và cùng tuyên thề. Nội dung tuyên thề như sau:

- Xóa bỏ mọi hiềm thù dân tộc, nguyện đoàn kết một lòng với đồng bào Kinh và đồng bào các dân tộc anh em khác, tương trợ giúp đỡ nhau phát huy truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, tích cực tăng gia sản xuất tự túc lương thực, đóng góp vào công cuộc kháng chiến, kiến quốc.

- Một lòng theo Bác Hồ, theo Việt Minh, trước sau như một, đoàn kết chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược.

Kết quả Đại hội thành công rực rỡ. Qua đại hội đoàn kết dân tộc lần này, và các lần kế tiếp, tinh thần cách mạng của đồng bào các dân tộc thiểu số ở địa phương được nâng lên, các vụ “ăn đầu trả đầu" trong một thời gian dài không xảy ra. Công tác vận động xây dựng chính quyền thôn, xã, tổng được triển khai nhanh và được sự ủng hộ của đồng bào.

Sau đại hội đoàn kết của đồng bào Cor ở vùng thấp, từ ngày 17 đến ngày 19.3.1947, theo chủ trương của Tỉnh ủy Quảng Nam, Đại hội thành lập châu và Ủy ban hành chính châu Trà My được tổ chức tại đồn Trà My. Châu Trà My gồm cả vùng Trà My và Phước Sơn.

Tham dự Đại hội có trên 1.500 đại biểu các dân tộc Cadong, Xêđăng, Cor, Bh’noong và Kinh ở Trà My và Phước Sơn, từ các xã vùng thấp đến vùng cao và toàn thể cán bộ Phòng Liên lạc quốc dân thiểu số Trà My.

Tại Đại hội còn có mặt đồng chí Nguyễn Xuân Nhĩ, đại diện Tỉnh ủy, đồng chí Nguyễn Võ, đại diện Uỷ ban hành chính tỉnh, đồng chí Trần Học Giới, Trưởng phòng Liên lạc quốc dân thiểu số tỉnh. Đồng chí Lê Trọng Ba, đại diện Phòng Liên lạc quốc dân thiểu số Khu 5 cũng về tham gia chỉ đạo đại hội.

Sau ba ngày làm việc khẩn trương, sôi nổi, Đại hội đã thành công tốt đẹp. Ủy ban hành chính châu Trà My được thành lập, gồm có: Nguyễn Võ- Chủ tịch, Phạm Diệu- Phó chủ tịch, Ngô Tấn Khá- ủy viên thư ký, Đinh Xấu (người Bh' noong)- ủy viên quân sự, Đinh Tựu ( đại biểu Quốc hội)- ủy viên văn xã, Nguyễn Tiệm- ủy viên kinh tài.

Đại hội thành lập châu và Ủy ban hành chính châu Trà My là một sự kiện có ý nghĩa lớn đối với nhân dân các dân tộc ở địa phương. Từ đây các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, đóng góp sức người, sức của của đồng bào cho kháng chiến đều phát triển có tổ chức, gắn liền với hoạt động của chính quyền cách mạng địa phương.

Sau Đại hội thành lập, Ủy ban hành chính châu Trà My tiếp tục kiện toàn tổ chức, củng cố xây dựng và phát triển các ủy ban thôn, xã và các đoàn thể cách mạng. Nhờ vậy, phong trào cách mạng ở Trà My ngày càng được tổ chức chặt chẽ, tập hợp được đông đảo các tầng lớp nhân dân và không ngừng lớn mạnh.

Trước khi thành lập ra châu Trà My, Tỉnh ủy và Ủy ban hành chính Quảng Nam quyết định cắt ba xã Tiên Hương, Tiên Sơn và Tiên Trà của huyện Tiên Phước giao cho Trà My. Đại hội thành lập châu Trà My đã thay đổi tên ba xã: Tiên Hương đổi thành Trà Lương, Tiên Sơn đổi thành Trà Sơn và Tiên Trà đổi thành Trà Giang. Ba xã Trà Lương, Trà Sơn và Trà Giang được xác định là vùng bàn đạp, không chỉ là nơi đóng cơ quan của châu mà còn là vùng cung cấp nhiều cán bộ quân dân, chính, đảng, đội ngũ giáo viên và lực lượng vũ trang cho châu. Phong trào cách mạng ở đây phát triển mạnh và đều khắp.

Cũng trong ngày 19.3.1947- ngày thành lập châu Trà My, tại cơ quan hành chính châu Trà My, đồng chí Nguyễn Xuân Nhĩ, ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, đại diện Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh triệu tập cuộc họp toàn thể cán bộ là đảng viên đang công tác tại Trà My để truyền đạt Nghị quyết của Tỉnh uỷ về công tác xây dựng Đảng đối với miền núi và thành lập Ban cán sự Đảng châu Trà My. Đồng chí Nguyễn Xuân Nhĩ chỉ định đồng chí Nguyễn Đáo, Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh châu Trà My, làm Bí thư và đồng chí Phạm Diệu, Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính châu Trà My, làm Phó bí thư Ban cán sự Đảng châu Trà My.

Việc thành lập Ban cán sự Đảng châu Trà My đáp ứng yêu cầu xây dựng Đảng cũng như lãnh đạo phong trào cách mạng ở địa phương, là bước chuẩn bị lớn về mặt tổ chức cho việc thành lập Đảng bộ huyện Trà My sau này.

Ngay sau thành lập, châu Trà My, Ban cán sự Đảng và Uỷ ban hành chính châu Trà My đẩy mạnh cuộc vận động đoàn kết dân tộc, xây dựng củng cố chính quyền cấp cơ sở, tổ chức tăng gia sản xuất và tăng cường phát triển đảng viên.

Về vận động đoàn kết dân tộc, nổi bật nhất là cuộc vận động đoàn kết giữa đồng bào các xã thuộc vùng cao Phước Sơn và các xã Trà Tak Leng, Trà Tak Pui của Trà My. Đồng bào ở hai vùng này có "nợ đầu" nên hiềm khích với nhau từ lâu đời nay, gây ảnh hưởng không tốt đến cuộc vận động cách mạng ở địa phương.

Tháng 8.1947, để cho nhân dân hai vùng có điều kiện gặp nhau, trao đổi bàn bạc đi đến xóa bỏ "nợ đầu" và các hiềm khích cũ, xây dựng lại tình đoàn kết, Ban cán sự Đảng và Ủy ban hành chính châu Trà My đã vận động tổ chức một cuộc Đại hội đoàn kết tại Nước Cỏ, gần Hố Vã, bên bờ sông Leng( thuộc xã Trà Leng ngày nay).

Đại hội diễn ra trong 3 ngày. Đồng bào ở các vùng trên cử đại biểu về dự đại hội. Theo tập quán cổ truyền của đồng bào, Đại hội tổ chức lễ đâm trâu huê, lấy máu để tuyên thệ đoàn kết (1). Dưới sự chủ trì của Uỷ ban hành chính châu, các đại biểu thảo luận vấn đề đoàn kết, đi đến nhất trí xóa bỏ toàn bộ các hiềm khích xảy ra trước đây, nguyện đoàn kết chung quanh Ban cán sự Đảng và chính quyền cách mạng, đồng lòng theo Việt Minh và Bác Hồ, tích cực tham gia và ủng hộ kháng chiến. Từ đây giữa hai vùng không còn xảy ra nạn “ăn đầu trả đầu", đồng bào hai vùng đoàn kết và phấn khởi tham gia các phong trào cách mạng.

Về công tác tăng gia sản xuất tự túc lương thực lúc này được chú trọng đúng mức. Năm 1947, theo chủ trương của Ban cán sự Đảng và Ủy ban hành chính châu Trà My, trại sản xuất Tứ Mỹ được hình thành nhằm sản xuất tự túc một phần lương thực cho cán bộ, bộ đội địa phương. Đồng chí Nguyễn Công Tắc và đồng chí Nguyễn Lang được phân công phụ trách trại. Sang năm 1948, trại này được củng cố và kết quả sản xuất được nâng cao.

Về phong trào dạy và học văn hóa: Người Cadong, Xêđăng, Cor, Bh' noong...ở Trà My trong lịch sử vẫn từng khao khát học chữ. Vì vậy sau ngày châu Trà My được thành lập, cùng với các công tác khác, Uỷ ban hành chính châu Trà My rất chú trọng đến công tác dạy và học chữ cho đồng bào các dân tộc. Phong trào học văn hoá ở Trà My được bắt đầu từ năm 1948, trước tiên là ở các xã vùng thấp, sau đó lên vùng trung, vùng cao. Một trong những trường có phong trào dạy và học khá bấy giờ là trường nóc Hố Thượng Giữa.

Trường Nóc Hố Thượng giữa (xã Trà Tak Zút) được xây dựng đầu năm 1948. Đơn vị đảm nhận việc tổ chức xây dựng trường là trại sản xuất Tứ Mỹ. Người phụ trách trực tiếp trường là đồng chí Nguyễn Lang. Trong 4 năm hoạt động, từ 1948 đến 1951, trường nóc Hố Thượng Giữa đã mở nhiều khóa học, mỗi khóa có khoảng 15 học sinh. Chương trình đào tạo của trường gồm dạy chữ phổ thông, thường thức khoa học...đặc biệt trường chú trọng giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng, chính sách đoàn kết dân tộc của Đảng cho học sinh. Kết quả, trường nóc Hố Thượng Giữa đào tạo được khá nhiều học sinh, trong đó một số sau này đứng vào hàng ngũ của Đảng và trở thành cán bộ dân tộc thiểu số có năng lực. Các đảng viên người dân tộc thiểu số đầu tiên của Trà My như đồng chí Châu Kiều, Trụ Lý cũng là học sinh của trường này.

Để đảm bảo sự thông suốt giữa các vùng, nhất là đồng bằng và miền núi trong điều kiện cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã nổ ra, công tác xây dựng hành lang được đặt ra nhân dân các dân tộc Trà My đã có nhiều đóng góp cho công tác này Năm 1948, Liên Khu ủy 5 cho mở một hành lang từ đồng bằng Quảng Nam lên Bắc Tây Nguyên. Hành lang chạy từ Tam Kỳ lên Tiên Phuớc, đến Đồng Trại (Trà My ) thì rẽ làm hai nhánh: một nhánh từ Đồng Trại- Nước Oa- Xar Xung- Triêng (Trà My), Trà Và (Phước Sơn) lên Tây Bắc huyện Đak Glêi, tỉnh Kon Tum. Một nhánh từ Đồng Trại- Nước Iếp- Xuân Rỉa lên Tak Xau (Đak Glêi, Kon Tum). Nằm trên địa bàn chính của các trục hành lang này, nhân dân các dân tộc huyện Trà My đã tích cực tham gia mở đường, xây dựng, bảo vệ kho tàng, trạm, trại và đi dân công vận chuyển lương thực, công cụ, vũ khí....phục vụ cho bộ đội chủ lực của Liên khu 5 ở chiến trường Bắc Tây Nguyên.

Công tác xây dựng lực lượng vũ trang địa phương ở Trà My cũng được chú ý đúng mức. Năm 1948, lực lượng vũ trang tập trung huyện Trà My chính thức được thành lập, gồm một trung đội, trong đó có hai tiểu đội người Kinh đóng tại Mậu Cà ( nay thuộc thị trấn Trà My) và một tiểu đội người dân tộc thiểu số đóng tại Mường Ron. Các xã đều xây dựng lực lượng dân quân.

Lúc này, số đảng viên trong 16 cán bộ trại sản xuất Tứ Mỹ họp thành một tổ Đảng do đồng chí Phan Trấp làm tổ trưởng. Tổ Đảng sinh hoạt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chi bộ Phòng Liên lạc quốc dân thiểu số tỉnh Quảng Nam. Vì ở gần xã Tam Hiệp, huyện Tam Kỳ ( nay thuộc huyện Núi Thành) đường đi lại Tam Hiệp thuận lợi hơn về Trà My, tổ Đảng của trại sản xuất tham gia sinh hoạt trong chi bộ Hà Huy Tập (chi bộ xã Tam Hiệp). Chi bộ Hà Huy Tập giao nhiệm vụ cho tổ Đảng tuyên truyền xây dựng cơ sở Đảng và tổ chức phong trào dạy và học văn hóa ở xã Trà Tak Zút. Tổ Đảng luôn hoàn thành các công tác của chi bộ giao. Trong thời gian sáp nhập xã lần thứ hai, chi bộ Hà Huy Tập cử đồng chí Trần Sĩ Huề, chi ủy viên phụ trách tổ chức, lên giúp tổ Đảng mở lớp bồi dưỡng cảm tình Đảng cho 10 thanh niên dân tộc ở các nóc của xã Trà Tak Zút như Hố Trung, Hố Thượng, Hố Hạ...Trên cơ sở đó, tổ Đảng giới thiệu các đối tượng tiến bộ nhất trong số thanh niên trên về chi bộ Hà Huy Tập để xét kết nạp Đảng. Trong số cán bộ người địa phương được đứng vào hàng ngũ Đảng sớm nhất của Trà My có một số do tổ Đảng trại sản xuất Tứ Mỹ giới thiệu và chi bộ Hà Huy Tập kết nạp, như các đồng chí Châu Kiều, Trụ Lý...

Lúc bấy giờ, Tỉnh uỷ tăng cường cho huyện Trà My nhiều cán bộ là đảng viên. Số lượng đảng viên ở Trà My do đó tăng lên khá nhanh. Để đảm bảo sinh hoạt và yêu cầu lãnh đạo cách mạng tại địa phương, Ban cán sự Đảng huyện Trà My đã tập hợp các đảng viên tổ chức thành một chi bộ Đảng. Hầu hết các đảng viên trong chi bộ đang công tác ở các cơ quan, đoàn thể của huyện, riêng đồng chí Lê Đàn là cán bộ phụ trách xã Trà Lương và đồng chí Trà Quang phụ trách xã Trà Sơn. Đồng chí Nguyễn Đáo được cử làm Bí thư Chi bộ.

Tháng 5.1948, đồng chí Trần Mịch được Tỉnh uỷ điều động lên Trà My, làm Bí thư chi bộ Ban cán sự Đảng Trà My thay đồng chí Nguyễn Đáo. Chi bộ họp đánh giá tình hình và bàn chủ trương công tác. Chi bộ phân tích: Trà My là địa phương núi non hiểm trở, dân cư thưa thớt, đồng bào các dân tộc thiểu số chiếm đa số, đời sống kinh tế, văn hoá còn lạc hậu. Cán bộ chủ yếu là người Kinh ở đồng bằng mới lên, còn xa lạ, chưa hiểu tình hình vùng có đồng bào các dân tộc thiểu số. Ba xã trung châu tuy toàn là người Kinh sinh sống nhưng cũng ít cán bộ, đảng viên và cơ sở Đảng. Vấn đề đặt ra trước mắt của chi bộ là phải mạnh dạn đào tạo cán bộ địa phương và chăm lo công tác xây dựng Đảng, nhanh chóng tạo điều kiện để có thể thành lập chi bộ Đảng ở các xã trung châu, vùng thấp, tạo bàn đạp để tiến lên vùng trung và vùng cao. Các đảng viên công tác ở châu về công tác ở xã, phụ trách vùng phải xâm nhập, phát hiện các quần chúng tích cực để bồi dưỡng, giao nhiệm vụ, giáo dục, xây dựng thành các đối tượng phát triển Đảng.

2. HUYỆN TRÀ MY ĐƯỢC THÀNH LẬP. ĐẢNG BỘ HUYỆN RA ĐỜI VÀ TRỰC TIẾP LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO CÁCH MẠNG TẠI ĐỊA PHƯƠNG, GÓP PHẦN ĐƯA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP ĐẾN THẮNG LỢI( 10.1948- 7.1954)

Những kết quả của việc tổ chức xây dựng chính quyền ở các địa phương miền núi nói chung, ở Trà My nói riêng và sự ra đời của châu Trà My là bước chuyển quan trọng cho việc thành lập huyện Trà My. Trên cơ sở chín muồi đó và nhằm đẩy mạnh xây dựng vùng tự do và căn cứ miền núi của tỉnh, Tỉnh ủy Quảng Nam chủ trương bỏ cấp châu, thành lập các huyện.

Theo tinh thần đó, ngày 12.10.1948 , Tỉnh uỷ đã quyết định tách phần đất thuộc 2 tổng của châu Trà My sáp nhập cùng với 6 xã: Liên Giang, Vinh Quang (huyện Quế Sơn), Song An, Phú Toàn (huyện Tiên Phước), Tráng Sơn và Thăng Phước (huyện Thăng Bình) để thành lập huyện Phước Sơn. Phần đất còn lại của châu Trà My được hình thành huyện Trà My. Huyện Trà My gồm có 14 xã là: Trà Tak Zút, Trà Tak Nú, Trà Văn Đốc, Trà Ngok Tập, Trà Tak Riềng, Trà Ngok Tu, Trà Tak Bền, Trà Tak Kót, Trà Tak Pui, Trà Tak Leng, Trà Kiếp Cang, Trà Tak Poa, Trà Tak Rây(1). Ủy ban Kháng chiến- Hành chính huyện Trà My do đồng chí Phạm Diệu làm Chủ tịch(2).

Sự ra đời của huyện Trà My đánh dấu bước ngoặt trong tiến trình phát triển của địa phương.

Công tác xây dựng mặt trận và các đoàn thể cũng được hình thành theo đơn vị hành chính mới. Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể như thanh niên, phụ nữ, nông dân đều có Ban Chấp hành ở huyện và một số xã vùng thấp cũng đã có người phụ trách các tổ chức này.

Căn cứ định hướng của cuộc họp chi bộ vào tháng 5.1948, chỉ trong một thời gian ngắn, chi bộ Ban cán sự Đảng châu Trà My phát triển 6 đảng viên mới, trong đó có 2 đảng viên công tác ở cơ quan, 2 đảng viên ở Trà Lương và 2 đảng viên ở Trà Sơn. Đến lúc này Trà Lương và Trà Sơn, mỗi xã có 3 đảng viên đủ điều kiện thành lập chi bộ xã. Cuối năm 1948, chi bộ Trà Lương và chi bộ Trà Sơn được thành lập. Chi bộ Trà Lương gồm các đồng chí: Lê Đàn, Lê Thảo, Đoàn Thị Liên, do đồng chí Lê Đàn làm bí thư. Chi bộ xã Trà Sơn có 3 đảng viên do đồng chí Trà Quang làm bí thư. Chi bộ Trà Tak Pui gồm 13 đảng viên. Chi bộ cơ quan lấy biệt danh là chi bộ Việt Bắc, với ý thức hướng về Việt Bắc- căn cứ địa của cách mạng cả nước, ở đó có Trung ương Đảng và Bác Hồ. Sang năm 1949, hoà theo phong trào thi đua “phát triển xây dựng Đảng” của cả nước, chi bộ Việt Bắc tiếp tục thúc đẩy công tác phát triển xây dựng Đảng nhanh, mạnh hơn. Kết quả trong quí I năm 1949, Trà My có 18 đảng viên, sang quí II có 35 đảng viên, quí III có 67 đảng viên

Với số lượng đảng viên tăng lên như vậy, yêu cầu thành lập Đảng bộ được đặt ra. Qua theo dõi, Tỉnh ủy Quảng Nam thấy rõ sự trưởng thành của công tác xây dựng phát triển Đảng ở Trà My và cho rằng đủ điều kiện để thành lập Đảng bộ huyện. Và ngay trong năm 1949, Tỉnh uỷ quyết định thành lập Đảng bộ huyện Trà My.

Ngày 28.10.1949, tại xã Trà Giang, lễ tuyên bố thành lập Đảng bộ huyện Trà My được tiến hành trọng thể. Trong không khí trang nghiêm, trước cờ búa liềm của Đảng và chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Phan Tốn- ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, thừa uỷ nhiệm của Tỉnh uỷ Quảng Nam công bố quyết thành lập Đảng bộ huyện Trà My và công bố quyết định chỉ định Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ gồm các đồng chí: Trần Mịch, Phạm Diệu, Đoàn Ngọc Bích, Nguyễn Hữu Hoằng và Lê Đàn. Đồng chí Trần Mịch được chỉ định làm Bí thư Huyện ủy. Trong giờ phút thiêng liêng, tất cả đảng viên phấn khởi, cảm động, ghi lòng tạc dạ trách nhiệm nặng nề, to lớn với Đảng, với địa phương.

Đảng bộ huyện Trà My ra đời đánh dấu một bước trưởng thành, chuyển biến cả về lượng và chất trong công tác xây dựng Đảng và phong trào cách mạng trong toàn huyện.

Sau ngày thành lập, Huyện ủy họp phiên đầu tiên. Hội nghị phân tích, đánh giá tình hình và xác định nhiệm vụ xây dựng kinh tế, văn hoá, chính trị quân sự và nhấn mạnh phải xây dựng huyện thành căn cứ địa kháng chiến của tỉnh.

Để thực hiện nhiệm vụ lớn lao đó, Hội nghị đặt lên hàng đầu vấn đề đào tạo cán bộ và xây dựng phát triển Đảng; phải đào tạo cán bộ địa phương, phát triển đảng viên là người địa phương, nhất là người dân tộc thiểu số, đi dần từ vùng thấp lên vùng trung, vùng cao, tiến đến các xã đều có chi bộ Đảng.

Qua thảo luận, Hội nghị nêu các tiêu chuẩn kết nạp đảng viên người dân tộc thiểu số là yêu nước, yêu Bác Hồ, yêu cán bộ, hăng hái, tích cực thực hiện công tác kháng chiến, có uy tín trong dân, ủng hộ kháng chiến, ủng hộ Việt Minh.

Huyện uỷ giao cho các đảng viên, đặc biệt là cán bộ đoàn công tác phát hiện các cán bộ người dân tộc thiểu số có tư tưởng, ý thức tốt đang ở trong các đoàn công tác để giới thiệu cho Đảng. Cuối năm 1949, Huyện uỷ phân công các đồng chí Trần Mịch, Phạm Diệu, Đoàn Ngọc Bích, Phạm Thành Hiệu lên các xã vùng cao trực tiếp gặp gỡ, bồi dưỡng các đối tượng Đảng là người dân tộc thiểu số. Trên cơ sở đó, Huyện uỷ đã lần lượt xét và kết nạp được nhiều đảng viên người dân tộc thiểu số. Cuối năm 1949, số đảng viên của Đảng bộ lên đến 174. Riêng số lượng đảng viên được kết nạp ở 3 xã Trà Tak Nú, Trà Tak Zút, Trà Tak Pui đủ để thành lập mỗi xã một chi bộ Đảng. Chi bộ xã Trà Tak Zút do đồng chí Hòa làm bí thư. Chi bộ xã Trà Tak Nú do đồng chí Nhớ làm bí thư. Về sau chi bộ Trà Tak Nú được tách thành hai Chi bộ: Chi bộ Trà Tak Nú và chi bộ Trà Tak Kót. Chi bộ xã Trà Tak Kót do đồng chí Hồ Truyền làm bí thư. Chi bộ xã Trà Tak Pui do đồng chí Xú làm bí thư.

Sang năm 1950, Huyện ủy chủ trương thành lập Xã ủy liên xã Trà Tak Zút, Trà Tak Kót, Trà Tak Nú nhằm giúp cho ba chi bộ xã liền kề này có điều kiện học hỏi, rút kinh nghiệm lẫn nhau. Hội nghị thành lập Xã ủy được tổ chức ở nóc Năm Truyền và đồng chí Năm Truyền được cử làm Bí thư Xã ủy.

Đợt đột phá xây dựng phát triển Đảng lên vùng người dân tộc thiểu số đạt kết quả thắng lợi, mở màn cho cuộc hành trình tiếp theo, tiến lên vùng trung, vùng cao, phủ cơ sở Đảng khắp các xã trong huyện. Thành tích này được Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đánh giá cao. Tại Đại hội Đảng bộ liên tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng tháng 2.1950, đồng chí Cao Sơn Pháo, Phó bí thư Tỉnh ủy, khi nhận định tình hình xây dựng và phát triển Đảng toàn tỉnh, đã phát biểu: “Sở dĩ việc phát triển Đảng của chúng ta thành công như thế là do nhận thức đúng đắn của các cấp bộ vào khoảng cuối năm lại đây (tức cuối năm 1949 - Người biên soạn) đã thấm nhuần trong cấp bộ, trong quần chúng, đảng viên". “Ta cũng không quên khen huyện Trà My, một huyện tiền phong gây cơ sở Đảng trong đồng bào thượng du"(1).

Để phát triển tiểu thủ công nghiệp ở vùng tự do Quảng Nam, trong các năm 1949, 1950, Ủy ban Kháng chiến- Hành chính tỉnh chủ trương xây dựng các ngành tiểu, thủ công nghiệp ở miền núi, qua đó từng bước giúp đồng bào dân tộc ở các huyện miền núi trong tỉnh sản xuất, tự cung cấp các mặt hàng cần thiết cho sinh hoạt hàng ngày, như rựa, vải mặc...Thực hiện chủ trương của trên, đồng thời dựa vào nhu cầu thực tế của địa phương, Huyện ủy và Uỷ ban Kháng chiến- Hành chánh huyện Trà My chủ trương trước hết, chú trọng xây dựng hai ngành, nghề: rèn và dệt.

Từ năm 1949, huyện Trà My đã xây dựng đựợc một nhà dệt vải với hai khung cửi ở Phương Đông và hai lò rèn. Ngành rèn đào tạo được hai thợ rèn và ngành dệt đào tạo được 7 thợ dệt là người các dân tộc thiểu số ở địa phương. Trong 7 chị em học nghề dệt, đến năm 1950 đã có hai chị tay nghề vững, biết dệt vải, 5 chị biết kéo sợi. Đây là thành công bước đầu đáng phấn khởi trong công tác xây dựng các ngành tiểu công nghiệp và thủ công ở Trà My.

Cũng vào năm 1949, Uỷ ban Kháng chiến- Hành chính Quảng Nam mở lớp đào tạo cán bộ hướng dẫn nghiệp vụ quản lý hành chính và tổ chức cấp xã cho các huyện. Trà My đã gửi cán bộ tham gia học khóa này. Khi các đồng chí dự học mãn khóa trở về địa phương, Uỷ ban Kháng chiến - Hành chính huyện lập kế hoạch mở lớp đào tạo cho cán bộ các xã. Theo dự định ban đầu, trong năm 1949, huyện mở 3 lớp với tổng số 60 học viên. Về sau, căn cứ vào khả năng, huyện chỉ mở hai lớp nhưng số lượng học viên vượt 5 người so với dự định của cả 3 lớp.

Lúc này, công tác xây dựng xã kiểu mẫu ở Trà My cũng đạt đựợc kết quả cụ thể. Cuộc vận động xây dựng xã kiểu mẫu ở miền Tây Quảng Nam đựơc phát động từ năm 1948. Nội dung xã kiểu mẫu là “ các xã này nói chung tiến bộ hơn các xã khác về mọi mặt": chính trị, kinh tế, xã hội. Sau hơn hai năm xây dựng, cả miền tây Quảng Nam có 4 xã kiểu mới có tiến bộ hơn cả thì Trà My có 2 xã là Trà Tak Zút và Trà Tak Nú được đề nghị tuyên dương mùa thi đua năm 1949(1). Thành tích được đề nghị tuyên dương như sau: “Về chính trị: Cơ sở quần chúng phát triển rộng rãi, nhân dân có ý thức mạnh mẽ chính quyền, biết phổ thông đầu phiếu. Về văn hóa: Tinh thần hiếu học của nhân dân lên rất cao, đã tự tìm giáo viên để học, có triển vọng thanh tóan nạn mù chữ. Về kinh tế: Đã chuyển làm rẫy sang làm ruộng, làm vườn kiểu mẫu, chứng tỏ sự định canh, định cư đã có mầm móng. Về xã hội: Phong trào đời sống mới được quan niệm rộng rãi và thực hiện rộng rãi và thực hiện có kết quả, đã cải cách nhiều phong tục tập quán" (2).

Có thể nói năm 1949, phong trào cách mạng ở Trà My có nhiều bước chuyển. Những kết quả đạt được của Trà My được tỉnh đánh giá cao. Tại Đại hội Mặt trận Liên Việt liên tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng cuối năm 1949, đồng chí Hồ Nghinh, ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ phụ trách Mặt trận Liên Việt đã đọc bản tuyên dương công trạng, trao cờ “Huyện miền núi gương mẫu” cho Trà My. Cũng tại Đại hội lần này, đồng chí Hồ Nghinh, thay mặt Ban Thường vụ Tỉnh uỷ tuyên dương Đảng bộ Trà My và cá nhân đồng chí Trần Mịch về thành tích trong công tác phát triển Đảng.

Trong khi phong trào cách mạng ở miền núi Quảng Nam phát triển mạnh, thì ở bắc Kun Tum, thực dân Pháp hoạt động ráo riết, nống ra chiếm đóng lại một số vùng ta. Năm 1949, Huyện ủy Đak Glêi phải chuyển cơ quan sang đóng ở vùng Xar Xung của Trà My và xây dựng xã Trà Tak Leng thành bàn đạp để từ đây về địa phương hoạt động; sau đó lại dời xuống Tak Lũ cho đến chiến dịch miền Tây vào năm 1951 mới chuyển về Đak Glêi. Cũng khoảng từ năm 1949, một bộ phận cán bộ, đảng viên của huyện Đak Tô (Kon Tum) phải sang Trà My dựa vào xã Rây, lấy vùng này làm bàn đạp để xây dựng móc nối cơ sở về lại địa phương. Đảng bộ và nhân dân huyện Trà My nhiệt tình giúp đỡ các huyện bạn cả về dân công vận chuyển lương thực, công cụ, muối...

Chiến trường Bắc Tây Nguyên và Bắc Quảng Nam ngày một phát triển. Yêu cầu dân công phục vụ cho bộ đội đội đánh giặc đặt ra khá lớn. Chỉ tính năm 1949, dân quân miền Tây Quảng Nam đã góp 50. 182 công vận chuyển, tiếp lương, tải đạn phục vụ các chiến trường Bắc Tây Nguyên, Bắc Quảng Nam. Sang năm 1950, toàn miền đóng góp 144.472 công, khối lượng dân công tăng gấp 3 lần năm 1949. Chỉ riêng dân quân huyện Trà My trong năm 1949 đã huy động được 1.348 dân công, đóng góp 9.358 ngày công và sang năm 1950, tổng số ngày công đóng góp lên đến 11.786 ngày. Đây là một thành tích khá nổi bật của Trà My trong điều kiện của một huyện miền núi cao, đất rộng, người thưa.

Ngày 21.1 .1950, lợi dụng những “sai lầm, khuyết điểm của cán bộ” trong công tác vận động quần chúng, thực dân Pháp đã kích động một số tù trưởng bất mãn với ta ở huyện Sơn Hà (Quảng Ngãi) nổi dậy chống phá ta, gây ảnh hưởng xấu đến phong trào cách mạng ở miền núi Liên khu V. Vụ Sơn Hà nổ ra, Liên khu ủy V đã kịp thời chấn chỉnh tình hình và sau đó quyết định mở một đợt học tập về chính sách dân tộc của Đảng tại Ba Gia- Đồng Ké (Quảng Ngãi) cho các cấp ủy viên ở các địa phương miền núi, từ cấp huyện trở lên.

Tháng 4.1950, sau khi dự lớp học trên về, thực hiện chủ trương của Liên khu ủy V, Huyện ủy Trà My tổ chức đợt học tập cho tất cả cán bộ, đảng viên người người Kinh trong huyện. Thời gian học tập là 4 ngày. Nội dung học tập chủ yếu là quán triệt chính sách dân tộc của Đảng: "Đoàn kết, bình đẳng, tương trợ" và thấu suốt phương châm hoạt động miền núi: “Kiên nhẫn, thận trọng, chắc chắn". Có 25 cán bộ, đảng viên người Kinh dự học.

Liên hệ tình hình cuộc vận động cách mạng của địa phương từ Cách mạng tháng Tám năm 1945, sau khi nêu lên những thành công, Huyện ủy và toàn thể đảng viên dự học đều thấy rõ các khuyết, nhược điểm như: quan liêu, mệnh lệnh, bao biện, làm thay, rập khuôn theo trung châu.

Đây là lần đầu các cấp ủy Đảng và đảng viên huyện Trà My được học tập có hệ thống các chính sách dân tộc của Đảng. Qua đó, tư tưởng của các cấp ủy và cán bộ, đảng viên người Kinh chuyển biến mạnh, thấy rõ hơn trách nhiệm của mình trước Đảng về công tác vận động cách mạng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và công tác xây dựng miền núi thành căn cứ địa vững chắc của cách mạng.

Tháng 4.1950, đồng chí Trần Mịch được Tỉnh uỷ điều động về công tác ở tỉnh. Đồng chí Nguyễn Hữu Hoằng và đồng chí Lê Đàn được chỉ định tạm thời phụ trách công tác chung của Đảng bộ huyện. Đến tháng 6.1950, đồng chí Trần Huệ và đồng chí Huỳnh Thiện (Tám Tố) được Tỉnh uỷ điều động lên Trà My công tác. Đồng chí Trần Huệ được chỉ định làm Bí thư, đồng chí Huỳnh Thiện được chỉ định làm Phó bí thư Huyện uỷ. Được một thời gian, đồng chí Huỳnh Thiện được Tỉnh ủy điều động làm Bí thư Huyện ủy Bến Hiên, đồng chí Võ Lễ được cử giữ chức Phó Bí thư Huyện ủy Trà My.

Tháng 8.1950, để tạo điều kiện cho các Đảng bộ huyện miền núi tập trung sức xây dựng vùng đồng bào dân tộc thiểu số, Tỉnh uỷ Quảng Nam chủ trương tách các xã người Kinh thuộc các huyện miền núi giao lại cho các huyện đồng bằng.

Thực hiện chủ trương của Tỉnh uỷ, tháng 10.1950, Huyện ủy và Ủy ban Kháng chiến- Hành chính huyện Trà My đã bàn giao ba xã người Kinh: Trà Lương, Trà Sơn và Trà Giang cho huyện Tiên Phước (1). Sau khi bàn giao 3 xã nói trên cho Tiên Phước, mặc dù các cơ quan của huyện Trà My vẫn tiếp tục đóng tại xã Trà Giang, song từ đây, công tác xây dựng miền núi theo chủ trương của Liên khu uỷ V và Tỉnh uỷ được Đảng bộ Trà My tập trung tổ chức thực hiện có hiệu quả hơn trước.

Tháng 10.1950, Huyện ủy và Uỷ ban kháng chiến- hành chính huyện thành lập 3 đoàn cán bộ quân, dân, chính, Đảng chuyên trách xây dựng ba vùng cao, trung, thấp trong huyện Đoàn xây dựng vùng cao phụ trách các xã Trà Tak Rây, Trà Tak Bền, Trà Kiếp Cang, Trà Ngok Tập và Trà Tak Leng, do đồng chí Nguyễn Quảng phụ trách Đoàn xây dựng vùng trung phụ trách các xã Trà Ngok Giác, Trà Tak Poa, Trà Tak Riềng, Trà Ngok Tu (Tu Du), do đồng chí Lê Đáo làm trưởng đoàn. Đoàn xây dựng vùng thấp phụ trách các xã Trà Tak Zút, Trà Tak Kót, Trà Tak Nú do đồng chí Huỳnh Xuyến phụ trách. Hai đoàn xây dựng vùng trung và vùng thấp chủ yếu là cán bộ dân, chính, Đảng. Riêng đoàn xây dựng vùng cao- vùng bị địch từ phía Đak Glêi uy hiếp nặng - ngoài cán bộ dân, chính, Đoàn còn có một tiểu đội bộ đội điạ phương để hoạt động vũ trang tuyên truyền. Từ đây phong trào cách mạng ở Trà My phát triển lên một bước mới, khá toàn diện và vững chắc.

Công tác xây dựng xã kiểu mẫu trong năm 1950 tiếp tục thu nhiều kết quả. Xã Trà Tak Nú càng đạt nhiều tiến bộ “nhất là về cải cách quán tục và cải tiến nông nghiệp, đặc biệt là xã đào tạo được một số cán bộ cung cấp cho các ngành dân, quân, chính" (1).

Cũng ngay trong tháng 10.1950, nhằm tăng cường tiếp tế và tiêu thụ ở các huyện miền núi, giải quyết tình trạng một số thương lái bóc lột đồng bào các dân tộc thiểu số, Ủy ban Kháng chiến- Hành chánh huyện Trà My đã thành lập tổ chức kinh tế Kinh- Thượng huyện Trà My. Tổ chức kinh tế Kinh- Thượng huyện có chức năng, nhiệm vụ gần như một công ty mậu dịch.

Sau khi ra đời, tổ chức kinh tế Kinh- Thượng Trà My đã huy động thương nhân góp cổ phần và trực tiếp đứng ra làm nhiệm vụ tiếp tế và tiêu thụ hàng hóa, kiểm soát giá cả và các hoạt động của thương lái buôn bán trong huyện. Tổ chức kinh tế Kinh- Thượng Trà My bắt đầu hoạt động từ ngày 1.10.1950 với tổng số vốn 200.000 đồng.

Nhờ hoạt động của tổ chức kinh tế Kinh- Thượng huyện mà khả năng mua bán, trao đổi của đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển và ít bị một số thương lái lừa phỉnh, bóc lột.

Trong thời gian này, do yêu cầu của chiến trường bắc Tây Nguyên, đồng thời do yêu cầu phục vụ đời sống nhân dân ở đây ngày càng lớn, Liên khu ủy V đã cho mở thêm hành lang thứ hai, gồm một hướng từ đồng bằng Quảng Nam lên (tức Trà My đi Tak Lũ), một hướng từ đồng bằng Quảng Ngãi lên Trà Bồng (Quảng Ngãi) rẽ qua. Hai hướng gặp nhau tại Tak Lũ (Trà My), hợp thành một đường lên Mận Tra, Tu Du, Tak Răng qua Tak Minh (Đak Glêi, Kon Tum). Nhân dân các dân tộc huyện Trà My đã tích cực góp công sức để xây dựng tuyến hành lang này.

Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta ngày càng phát triển. Trước yêu cầu của cuộc kháng chiến, Huyện uỷ và Uỷ ban Kháng chiến- Hành chính huyện càng chú trọng phát triển lực lượng vũ trang và phong trào du kích chiến tranh. Từ một trung đội ban đầu, lực lượng vũ trang tập trung của Trà My đã phát triển thành một đại đội, gồm 48 đội viên, trong đó thanh niên các dân tộc thiểu số chiếm 1/3, được trang bị 12 súng trường với 120 viên đạn, 80 lựu đạn, 50 gươm trường. Bộ đội địa phương Trà My có kỷ luật và tinh thần chiến đấu cao.

Trong năm 1950, bộ đội huyện đã đánh địch 6 trận, thu 7 súng trường. Huyện đội mở 7 lớp huấn luyện cho 370 dân quân trong thời gian 9 ngày. Các lớp tập huấn dân quân thu nhiều kết quả. Học viên nhận thức đúng nhiệm vụ người chiến sĩ dân quân trong cuộc kháng chiến, đồng thời nắm các yếu lĩnh cơ bản về phương pháp ném lựu đạn, bắn súng trường.

Nhằm đáp ứng yêu cầu chỉ đạo trong khi cuộc kháng chiến của địa phương đang thu nhiều kết quả, tháng 3.1951, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Trà My lần thứ I đã họp tại thôn 4 (Đồng Trầu), xã Tiên Trà ( nay thuộc xã Trà Giang). 30 đại biểu đại diện cho toàn thể đảng viên trong Đảng bộ huyện về dự Đại hội. Đồng chí Trần Huệ- Bí thư Huyện ủy, đọc lời khai mạc và trình bày Báo cáo chính trị đại hội, tổng kết, đánh giá lại các hoạt động của Đảng bộ trong thời gian qua và nêu phương hướng công tác trong thời gian đến. Tiếp theo đồng chí Võ Lễ- Phó bí thư Huyện uỷ trình bày báo cáo về công tác quân sự và đồng chí Trần Hiền báo cáo về công tác xây dựng Đảng. Đại hội đặc biệt lưu ý đến vụ phiến loạn Sơn Hà (Quảng Ngãi) và ảnh hưởng của nó đang lan sang vùng cao Trà My. Thực dân Pháp đã cài cấy ngụy tề, tổ chức gum (goum) ở Trà Tak Bền và đang thực hiện âm mưu biến vùng này thành bàn đạp để mở rộng phạm vi ảnh hưởng của chúng xuống vùng trung, vùng thấp. Tình hình đó đòi hỏi Đảng bộ phải có kế hoạch tổ chức và vận động nhân dân đấu tranh ngăn chặn không cho địch mở rộng địa bàn hoạt động. Công tác bố phòng phải được tăng cường, dân quân, du kích cần thường xuyên canh gác, nhất là các làng xã tiếp giáp Trà Tak Bền. Đồng bào trong huyện hễ gặp địch hoặc có thấy hiện tượng khả nghi thì nhanh chóng báo cho chính quyền để kịp thời đối phó.

Công tác dân vận- Mặt trận nhằm vào điều cốt yếu là vận động đoàn kết giữa đồng bào các dân tộc thiểu số, đoàn kết giữa người Kinh với đồng bào các dân tộc thiểu số, đoàn kết kháng chiến và tích cực tăng gia sản xuất, cải thiện đời sống và chống, cứu đói. Tổ chức kinh tế Kinh- Thượng huyện cố gắng cung cấp các mặt hàng nhu yếu như muối, rựa, vải và các hàng hóa cần thiết khác cho đồng bào, khuyến khích đồng bào dùng các lâm thổ sản để đổi hàng hóa. Công tác chính quyền, công tác giáo dục cần được quan tâm hơn nữa. Trong những năm đến, cần tiếp tục củng cố, xây dựng các ủy ban và Hội đồng nhân dân thôn xã có đủ thành phần: chủ tịch, ủy viên thư ký và ủy viên quân sự.

Công tác xây dựng Đảng là một vấn đề hết sức quan trọng. Các cấp ủy Đảng, đảng viên trong tòan Đảng bộ cần bám sát cơ sở, quần chúng, nhất là các quần chúng đang công tác trong các ủy ban, Hội đồng nhân dân thôn, xã để bồi dưỡng, giáo dục, xây dựng nhằm phát triển đảng viên.

Đại hội bầu ra Ban chấp hành Đảng bộ mới gồm có 9 đồng chí, trong đó có 3 uỷ viên Ban Thường vụ. Đồng chí Trần Huệ được bầu lại làm Bí thư và đồng chí Võ Lễ làm Phó Bí thư Huyện uỷ.

Đây là lần đầu tiên Đảng bộ huyện Trà My tiến hành Đại hội. Phương hướng và nhiệm vụ mà Đại hội đề ra phù hợp với chủ trương của Liên khu ủy V, Tỉnh uỷ Quảng Nam về công tác miền núi

Từ sau vụ Sơn Hà, bên cạnh các biện pháp giải quyết trước mắt, Liên khu ủy V đã chỉ thị cho các Tỉnh ủy trực thuộc tăng cường công tác lãnh đạo miền núi, trong đó nhấn mạnh vấn đề làm thất bại âm mưu phát triển tề, gum của thực dân Pháp, đồng thời xây dựng cơ sở, xây dựng miền núi thành căn cứ địa vững chắc, lâu dài của cách mạng.

Tiếp thu sự chỉ đạo của Liên khu ủy V, tháng 4. 1951, Tỉnh ủy Quảng Nam triệu tập cuộc hội nghị tại Cây Sanh, xã Tam Dân, huyện Tam Kỳ. Đại biểu của 4 huyện miền núi và các ngành của tỉnh đã về dự.

Hội nghị nhận định, đánh giá tình hình miền núi, trong đó phân tích rõ âm mưu của địch, nhất là đối với vùng cao Trà My, đồng thời kiểm điểm những thiếu sót của Tỉnh ủy, Uỷ ban Kháng chiến- Hành chính tỉnh trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo miền núi. Hội nghị chủ trương huy động lực lượng cán bộ các ban, ngành bổ sung cho các huyện Bến Hiên, Bến Giằng, Phước Sơn và Trà My, tăng cường tiếp tế muối, vải, công cụ cho đồng bào các dân tộc thiểu số.

Hội nghị nhất trí chủ trương của Tỉnh uỷ về thành lập Ban cán sự miền Tây Quảng Nam để trực tiếp chỉ đạo phong trào các huyện miền núi. Ban cán sự miền Tây Quảng Nam trực thuộc sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, do đồng chí Hồ Nghinh làm Bí thư.

Triển khai thực hiện chủ trương Hội nghị tại Cây Sanh, nhiều cán bộ của tỉnh được điều động lên tăng cường cho Bến Hiên, Bến Giằng, Phước Sơn và Trà My. Lúc này trong bốn huyện miền núi thì Trà My là nơi có nhiều vấn đề phức tạp hơn cả. Thực dân Pháp đã lập tề ở Trà Tak Bền và đang mở rộng phạm vi ảnh hưởng ra các vùng xung quanh. Nguyên nhân là từ cuối năm 1950, địch bí mật vũ trang ở nam Trà Tak Bền mà ta không hề biết và từ đó chúng phát triển sang bắc Trà Tak Bền. Chính vì vậy Trà My được Tỉnh ủy đặc biệt quan tâm. Tỉnh ủy điều động 30 cán bộ và đại đội 24 của Tỉnh, do đồng chí Trần Hạnh Đức phụ trách, tăng cường giúp Huyện ủy xây dựng cơ sở ở các vùng trọng yếu.

Để tăng cường chỉ đạo trong đấu tranh với âm mưu mới của địch, tháng 6.1951, xã Trà Tak Bền được tách ra làm 2 xã là Trà Tak Bền ( quen gọi là Bắc Bền) và xã Trà Kon Sall ( quen gọi là Nam Bền), xã Trà Tak Leng được tách ra làm hai xã là Trà Tak Leng và Trà Tak Iếp.

Cũng trong tháng 6.1951, đoàn cán bộ, bộ đội tăng cường của tỉnh lên đến Trà My. Huyện ủy Trà My họp với đoàn để bàn phương hướng về kế hoạch công tác cụ thể. Đồng chí Trần Huệ- Bí thư Huyện ủy - báo cáo tình hình chung trong huyện, đi sâu vào tình hình tổ chức gum, tề ở vùng cao của huyện. Đồng chí Trần Hạnh Đức phổ biến chủ trương của Tỉnh ủy về xây dựng miền núi. Qua thảo luận, bàn bạc, hội nghị thống nhất: thành lập hai đoàn cán bộ (mỗi đoàn gồm cán bộ của tỉnh và cán bộ của huyện). Một đoàn đi hoạt động ở hướng Trà Tak Leng, Trà Tak Iếp, Trà Văn Đốc, Trà Tak Pui, Trà Ngok Giác, do đồng chí Trần Huệ làm trưởng đoàn. Một đoàn đi hoạt động ở hướng Bắc Bền, Nam Bền, Trà Kiếp Cang, Trà Tak Rây, Trà Tak Poa, Trà Tak Riềng, Trà Ngok Tu (hướng trọng yếu) do đồng chí Trần Hạnh Đức làm Trưởng đoàn. Sau hội nghị hai ngày, hai đoàn đã hình thành và lên đường công tác(1).

Để đảm bảo yêu cầu đi sâu, đi sát xây dựng cơ sở, xây dựng phong trào, khi đến địa bàn hoạt động, mỗi đoàn đều phân nhỏ cán bộ; mỗi nhóm từ 3 hoặc 4 người và đều là đảng viên, do đó lập thành chi bộ ghép hai, ba xã. Các chi bộ có nhiệm vụ bám sát cơ sở, bám sát địa bàn được phân công. Do được học tập chính sách dân tộc của Đảng và nắm được chủ trương công tác của Tỉnh ủy, các cán bộ, đảng viên đều được lòng dân, được dân tin, dân mến. Và do thực hiện tốt phương thức công tác miền núi: "Kiên nhẫn, thận trọng, chắc chắn", cùng ăn, cùng ở, cùng làm với dân nên sâu một thời gian công tác, ta đã xây dựng được một số cơ sở cách mạng. Nhiều đồng chí cán bộ của tỉnh tăng cường cho huyện, trước đây chưa từng quen đường núi, chưa sống với đồng bào dân tộc, nay đã có thể chủ động hoạt động và bước đầu học được tiếng địa phương. Qua xâm nhập thực tế, cán bộ, đảng viên thấy được tình cảm sâu đậm của đồng bào đối với cách mạng, với Bác Hồ, với cán bộ cho nên trong mỗi người tình cảm gắn bó với miền núi cũng ngày một nảy nở. Chính vì vậy, sau ba tháng hoạt động, tháng 8.1951, khi Tỉnh ủy quyết định cho đoàn cán bộ tăng cường của tỉnh ở lại Trà My công tác lâu dài, không một ai trong 30 đồng chí phản đối, bất mãn, hoặc bỏ công tác. Tỉnh uỷ cũng quyết định cử đồng chí Trần Hạnh Đức thay đồng chí Trần Huệ, giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy Trà My. Một thời gian sau, đồng chí Nguyễn Xuân Diệp được Tỉnh uỷ cử giữ chức Phó Bí thư Huyện uỷ Trà My thay cho đồng chí Võ Lễ chuyển công tác khác. Riêng đại đội 24 lên Trà My chủ yếu hoạt động vũ trang tuyên truyền, đi đến từng làng để tiếp xúc với đồng bào, tuyên truyền cách mạng đồng thời để biểu dương lực lượng, làm cho quần chúng tin tưởng vào sức mạnh của bộ đội Cụ Hồ. Đến tháng 8 .1951, đại đội 24 được tỉnh đội điều động đi hoạt động nơi khác, chỉ để lại một tiểu đội là lực lượng nòng cốt xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang Trà My.

Đến tháng 10.1951, công tác xây dựng cơ sở ở xã xung yếu đạt được những kết quả bước đầu. Để kiểm điểm, đánh giá lại các hoạt động vừa qua, đề ra phương hướng tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chủ trương tập trung xây dựng miền núi của Tỉnh ủy và Ban cán sự miền Tây, Huyện ủy Trà My tổ chức Hội nghị mở rộng tại thôn 4, xã Tiên Trà. Dự hội nghị này có các đồng chí huyện ủy viên, Bí thư chi bộ các xã. Tất cả cán bộ của tỉnh tăng cường cho huyện vào tháng 6 cũng tham gia hội nghị. Tổng số có 60 đồng chí.

Hội nghị nhất trí đánh giá: Sau gần 5 tháng tích cực hoạt động các xã vùng trung, vùng cao, ta đã xây dựng được nhiều cơ sở cách mạng. Nếu trước kia có những xã không có cơ sở, thì nay tình trạng đó đã được khắc phục. Qua hoạt động, đường lối chủ trương của Đảng xâm nhập vào quần chúng, uy tín của Bác Hồ- lãnh tụ tối cao- được nâng cao. Hình ảnh Bác lắng đọng, thân thiết trong nhân dân. Đồng bào các dân tộc thiểu số hiểu rõ hơn về các âm mưu thâm độc của thực dân Pháp, càng căm thù chúng, do đó tinh thần quyết tâm tham gia kháng chiến được nâng lên. Hội nghị nhận định: phong trào tăng gia sản xuất của đồng bào đang có đà phát triển. Quần chúng hăng hái sản xuất để có ăn, có mặc và quyết không để địch mua chuộc bằng muối, rựa, vải... Hội nghị đồng thời biểu dương tinh thần và trách nhiệm công tác của các cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên đứng vào các vùng xung yếu, và những đóng góp tích cực của đại đội 24.

Sau khi nhận định, đánh giá tình hình, hội nghị tập trung thảo luận và đề ra một số chủ trương, biện pháp công tác trong thời gian đến như sau:

- Phong trào nào phải có con người nấy. Để đưa phong trào cách mạng trong huyện tiến lên và tiến lên một cách vững chắc thì một vấn đề cốt yếu là phải xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ và lực lượng nòng cốt người dân tộc thiểu số. Trong thời gian đến, các cấp ủy và cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ cần chú trọng hơn nữa về vấn đề này. Đồng chí nào phát hiện được người cảm tình, đối tượng nào thì chú tâm xây dựng người cảm tình, người đối tượng đó thành đảng viên. Với tất cả khả năng và tinh thần trách nhiệm của mình, Đảng bộ phải xây dựng cho được đội ngũ cán bộ, đảng viên và lực lượng nòng cốt tại chỗ.

- Tích cực vận động, tuyên truyền, giáo dục về đoàn kết giữa đồng bào các dân tộc thiểu số, giữa người Kinh với đồng bào các dân tộc thiểu số, tiếp tục làm cho đồng bào các dân tộc thiểu số thấy rõ bản chất thâm độc, xấu xa của bọn địch, bọn xấu trong việc tổ chức xây dựng gum, tề. Bọn này tuyên truyền xuyên tạc, gây chia rẽ dân tộc, dùng vật chất và các thủ đoạn mị dân khác để dụ dỗ, mua chuộc lòng dân.

- Tiếp tục vận động nhân dân đẩy mạnh sản xuất, cán bộ, đảng viên, bộ đội phải gương mẫu trong việc sản xuất, sản xuất với dân để cùng ăn, cùng ở, cùng làm với dân.

- Tăng cường công tác xây dựng chính quyền và đoàn thể quần chúng. Ở các xã chưa có Uỷ ban Kháng chiến- Hành chính và Hội đồng nhân dân phải tăng cường xây dựng để ít nhất có một đồng chí Chủ tịch xã. Đẩy mạnh công tác xây dựng bộ đội địa phương và dân quân, du kích.

Cuối cùng hội nghị bàn bạc, thảo luận và nhất trí quyết định chuyển các cơ quan của huyện Trà My từ Tiên Trà lên Nước Dất (gần Nước Xa). Hội nghị nhận định: nếu để căn cứ của huyện ở mãi tại vùng giáp ranh thì khó thực hiện chủ trương của hội nghị và của Tỉnh ủy về việc đẩy mạnh xây dựng vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Do đó có cơ quan của huyện cần nhanh chóng đặt tại nội địa, đứng hẳn ở miền núi và gần gũi với đồng bào các dân tộc thiểu số.

Hội nghị Huyện ủy mở rộng tháng 10 .1951 có một ý nghĩa quan trọng, đánh dấu một bước chuyển biến về tư tưởng và hành động của Đảng bộ cũng như phong trào cách mạng trong cả huyện.

Sau hội nghị, các đề án công tác của hội nghị được nhanh chóng triển khai thực hiện. Huyện ủy, Ủy ban Kháng chiến- Hành chính, Mặt trận Liên Việt đã đưa cán bộ, đảng viên lên Nước Dất xây dựng cơ quan. Mỗi cơ quan là một khu nhà sàn lợp tranh, có nhà làm việc, nhà ở cho cán bộ... Để thực hiện một phần việc tự cung cấp một số công cụ lao động cần thiết, giải quyết nạn thiếu cuốc, rựa ... cho đồng bào các dân thiểu số, Huyện ủy xây dựng ngay trong khu vực cơ quan một lò rèn. Lò rèn đáp ứng được nhu cầu về sửa chữa và cung cấp một số công cụ cần thiết cho nhân dân vùng cao; đào tạo một số thợ rèn cho các xã Trà Tak Rây, Trà Tak Poa, Trà Ngok Tu. Công tác tuyên truyền, giáo dục đường lối, chủ trương và chính sách dân tộc của Đảng, vấn đề vận động đoàn kết giữa đồng bào các dân tộc, đoàn kết giữa người Kinh và người dân tộc thiểu số đi vào chiều sâu. Trong hai tháng 4 và 5.1952, theo chủ trương của Tỉnh ủy, Huyện ủy tổ chức chỉnh huấn trong cán bộ, đảng viên. Nội dung chỉnh huấn tập trung vào công tác vận động đồng bào các dân tộc thiểu số. Kết quả, mở được 2 lớp chỉnh huấn cho 49 cán bộ và 1/2 số đảng viên. Qua chỉnh huấn, cán bộ, đảng viên thấy được sai lầm, hạn chế để từ đó củng cố lập trường và sáng tỏ thêm chủ trương của Đảng về công tác vận đồng đồng bào các dân tộc thiểu số. Huyện ủy cũng sắp xếp lại các tổ Đảng theo địa bàn thôn, nóc để tiện việc sinh hoạt, kiện toàn một số chi ủy.

Bấy giờ các tổ chức quần chúng như đoàn thanh niên, hội phụ nữ tuy chưa hình thành, quần chúng chủ yếu sinh hoạt theo từng bếp nóc song đã đi vào nền nếp, sinh hoạt thường xuyên hơn trước. Từ đây công tác chỉ đạo của Huyện ủy đối với vùng trung, vùng cao tiến hành sâu sát hơn. Đặc biệt Huyện ủy chú trọng xây dựng cơ sở, thôn nóc chiến đấu chung quanh vùng Nam Bền, Bắc Bền nhằm không để cho thực dân Pháp phát triển gum, tề sang Trà Tak Rây, Trà Kiếp Cang và các xã khác; đồng thời tạo bàn đạp tiến tới giải phóng Bắc Bền, Nam Bền.

Mùa xuân năm 1952, đoàn công tác do đồng chí Nguyễn Quảng, cán bộ phụ trách Nam Bền, Bắc Bền và một tổ vũ trang của huyện đến Ngok La (xã Trà Kiếp Cang) để xây dựng nơi đây thành bàn đạp tiến qua Nam Bền để móc nối, củng cố cơ sở cũ và phát triển cơ sở mới. Địa phương cử một đoàn đi đón đoàn công tác này. Song khi đoàn vừa đến Ngok La thì bị bọn tề điệp ở Nam Bền phát hiện. Chúng huy động một số gum, tề qua Ngok La vây bắt cán bô, bộ đội. Mặt khác, chúng còn báo tin cho đồn Ngok Spanh biết để đưa lính đến giúp sức.

Về phía ta, nhân dân Ngok La hết lòng bảo vệ đoàn công tác và khi đoàn công tác mới đến, để đề phòng địch, dân làng cho một toán thanh niên ra canh gác ở ngã đường giáp ranh giữa Ngok La với Nam Bền. Khi bọn gum, tề ở Nam Bền vừa xuống Nước Nà thì liền bị toán thanh niên này chặn lại, quyết không cho chúng qua suối bên làng.

Đến sáng hôm sau, bọn lính đồn Ngok Spanh (ĐakTo, Kon Tum) xuống Nam Bền, phối hợp với bọn gum, tề ở đây hành quân càn quét, Ngok La chỉ còn là một làng trống, phần lớn nhân dân chạy ra núi, trong làng chỉ còn một vài cụ già. Riêng đoàn công tác được sự chỉ dẫn của nhân dân đã tạm lánh ra ở một trại rẫy kín đáo, an toàn; và tại đây đoàn tiếp tục chuẩn bị tư tưởng cho cơ sở đối phó với địch.

Không tìm bắt được cán bộ cách mạng, địch hung hăng vây làng và canh giữ các trại lúa, âm mưu làm cho đồng bào đang lánh trong rừng do thiếu lương thực phải ra hàng, nhưng sau một tuần lễ càn quét Ngok La, không đạt kết quả chúng phải rút lui.

Khi bị địch bao vây càn quét làng, nhân dân Ngok La rất căm phẫn, đã đề nghị với cán bộ đoàn công tác xây dựng cơ sở Nam Bền, Bắc Bền cho trang bị súng, tổ chức lực lượng vũ trang đánh địch. Nhận thấy trang bị súng ngay lúc đó cho Ngok La là chưa đúng lúc, đoàn công tác đã vận động, hướng dẫn dân làng ở lại làng cũ đấu tranh trực diện với địch, ngăn cản không cho chúng đốt nhà, cướp của và đòi chúng rút khỏi làng.

Khi địch vừa rút khỏi Ngok La thì ta lập tức vũ trang cho Ngok La, xây dựng nơi đây thành một làng chiến đấu. Lực lượng dân quân du kích làng nhanh chóng được thành lập và được trang bị 2 súng trường, 2 quả mìn, một số đạn, lựu đạn và nhiều giáo mác, gậy gộc.

Đồng chí Nguyễn Quảng và tổ vũ trang của huyện vừa chỉ dẫn phương pháp sử dụng vũ khí và huấn luyện chiến đấu cho dân quân du kích, vừa đặc biệt bồi dưỡng cho anh chị em đội viên du kích về chính sách đoàn kết dân tộc của Đảng. Để gây uy thế cho làng chiến đấu Ngok La, ta họp cơ sở cách mạng ở Bắc Bền, dùng các cơ sở này móc nối với các cơ sở Nam Bền tuyên truyền: Ngok La vũ trang đánh Pháp, người địa phương bất kể đối tượng nào cũng không nên theo địch đi càn quét để làm thiệt hại cách mạng. Cơ sở cách mạng Bắc Bền, Nam Bền còn đi sát vận động các gia đình có con em tham gia gum, tề thì nên nằm yên, không hoạt động chống phá cách mạng.

Việc xây dựng làng chiến đấu Ngok La và cuộc tuyên truyền vận động trên đây có tác dụng khá lớn. Bọn gum, tề ở Nam Bền nghe Ngok La được cách mạng trang bị súng, lựu đạn thì rất lo sợ, co lại, không dám hoạt động hung hăng như trước. Từ đó, mặc dù biết chắc chắn có cán bộ ta đang hoạt động trong vùng, chúng vẫn không dám báo với thực dân Pháp, vì sợ bọn này sẽ bắt chúng dẫn đường và phối hợp hành quân.

Về phía ta, khi bọn gum, tề vùng cao Trà My co lại- chủ yếu là ở Nam Bền thì ta bung mạnh ra hoạt động. Theo chủ trương của Huyện ủy, trong năm 1952 và đầu năm 1953, đoàn cán bộ xây dựng vùng cao Trà My tích cực tiếp tục hoàn thành việc xây dựng cơ sở cách mạng rộng rãi ở Nam Bền, Bắc Bền, tây Trà Tak Rây, Trà Kiếp Cang... chuẩn bị một bước khi điều kiện cách mạng cho phép đưa nhân dân cùng cao nổi dậy quét sạch gum, tề.

Lúc này, cách làng chiến đấu Ngok La một đoạn đường núi là làng Mân Dí. Làng có 7 gia đình, trên 30 dân. Từ năm 1950, ở Mân Dí, đoàn cán bộ xây dựng vùng cao Trà My đã xây dựng ông Rủa thành một cơ sở cách mạng trung kiên và một số quần chúng thanh niên tích cực. Nhờ có cơ sở cách mạng vững mạnh cho nên vào những năm sau, mặc dù thực dân Pháp ra sức củng cố vùng gum Nam Bền, chúng vẫn không cắm được tề tại Mân Dí. Nhân dân Mân Dí một lòng theo Việt Minh, Bác Hồ.

Những năm 1952- 1954, cơ sở cách mạng Mân Dí tích cực tuyên truyền cho làng chiến đấu Ngok La và là đầu cầu chuyển các chủ trương, chính sách của Đảng, Bác Hồ từ vùng du kích vào sâu trong vùng địch kiểm soát, liên lạc, móc nối xây dựng cơ sở nòng cốt cách mạng ở các làng Nam Bền. Mân Dí có nhiều thành tích trong buổi đầu đoàn kết cán bộ xây dựng vùng cao Trà My, từ bàn đạp Ngok La tiến qua hoạt động ở vùng gum Nam Bền. Đây cũng là nơi bảo vệ cho làng chiến đấu Ngok La. Nói chung, trong qúa trình chuẩn bị, tiến tới giải phóng Nam Bền, bên cạnh vai trò bàn đạp của người Ngok La, phải kể đến vai trò của cơ sở làng Mân Dí.

Tuy nhiên, tình hình Nam Bền và đông nam Trà Tak Rây, Trà Kiếp Cang vẫn còn diễn biến phức tạp. Tháng 4.1953, chúng chia Nam Bền thành 4 khu, mỗi khu có 3 tên tề, đồng thời lợi dụng số người đi buôn để làm gián điệp. Trong năm 1953, chúng tổ chức 20 cuộc họp với sự tham gia của bọn tề để hướng dẫn cách đối phó với ta, tung nhiều luận điệu nhằm gây chia rẽ giữa đồng bào Kinh với đồng bào các dân tộc thiểu số.

Chính vì thế năm 1953, kiểm điểm lại tình hình, Liên khu ủy V vẫn thấy mọi mặt của Trà My nói riêng và các địa phương miền núi Quảng Nam nói chung chưa đạt yêu cầu so với bước nhảy vọt của cuộc kháng chiến, do đó, đã thành lập đoàn kiểm tra tình hình miền Tây Quảng Nam. Đoàn này đã đi đến các huyện Bến Hiên, Bến Giằng, Phước Sơn và Trà My, trong đó đặc biệt đi sâu vào các xã vùng cao Trà My như Nam Bền, Bắc Bền là những nơi thực dân Pháp đã tổ chức được hệ thống gum, tề và đời sống quần chúng đang gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn.

Tháng 10.1953, sau khi đoàn về báo cáo lại tình hình, Liên khu ủy V nhận thấy, để tăng cường công tác xây dựng căn cứ địa miền núi, giúp Tỉnh ủy Quảng Nam tập trung xây dựng vùng đồng bằng chuẩn bị chống chiến dịch Atlăng của địch, đã quyết định tạm thời tách miền tây ra khỏi Quảng Nam, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban cán sự miền Tây do Liên khu ủy V thành lập. Đồng chí Trương Chí Cương, Liên khu ủy viên được phân công làm Bí thư Ban cán sự. Từ đây cho đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, cũng như Bến Hiên, Bến Giằng, Phước Sơn, các hoạt động ở Trà My đều đặt dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp của Ban cán sự miền tây Quảng Nam.

Là một địa bàn chiến lược quan trọng, vùng nối giữa đồng bằng Quảng Nam, Quảng Ngãi với chiến trường bắc Tây Nguyên, vừa là nơi có tình hình phức tạp nhất trong 4 huyện miền núi Quảng Nam cho nên Trà My được Ban cán sự miền Tây tập trung chỉ đạo. Trà My, cụ thể hơn là vùng cao. Cuối năm 1953, Ban cán sự miền Tây Quảng Nam tổ chức chiến dịch miền Tây, thành lập Ban chỉ huy chiến dịch do đồng chí Bí thư Ban cán sự làm chỉ huy trưởng. Ban chỉ huy chiến dịch miền tây đóng tại Mân Tra (Trà My), chỉ huy các hoạt động ở vùng Bắc Bền, Nam Bền, gồm cả các hoạt động quân sự bao vây các đồn Kosia, Ngok Spanh và hỗ trợ nhân dân phá gum, tề khi điều kiện cho phép. Từ đây phong trào cách mạng ở Trà My, cũng như ở Bến Hiên, Bến Giằng, Phước Sơn, phát triển lên một bước mới.

Nhằm tăng cường sự chỉ đạo của Huyện ủy, năm 1953, đồng chí Châu Cự Hải được bầu làm Phó Bí thư Huyện ủy.

Trong hai năm 1952- 1953, cũng như các huyện miền núi Quảng Nam, Trà My bị mất mùa liên tiếp. Nạn đói, nạn đau, nạn nhạt muối hoành hành, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống và sự tham gia ủng hộ kháng chiến của đồng bào các dân tộc thiểu số. Tính đến đầu năm 1954, toàn huyện có 1.039 người bị đói, trong đó 423 người bị đói nặng và 616 người thiếu ăn (1). Nhu cầu muối ăn trở nên cấp bách hơn bao giờ hết, nhất là đối với nhân dân các dân tộc thiểu số ở vùng cao.

Trước tình hình đó, thực hiện chủ trương của Liên khu ủy V, ngay sau khi thành lập, Ban cán sự miền Tây Quảng Nam đã mở cuộc vận động cứu đói và cứu lạt (lạt muối) kéo dài từ năm 1953 đến đầu năm 1954.

Để giải quyết nạn đói một cách tích cực, theo chỉ đạo của Ban cán sự miền Tây, Huyện ủy và Uỷ ban kháng chiến- Hành chính Trà My không chỉ tổ chức trợ cấp cho đồng bào lương thực để ăn mà còn trợ cấp thóc giống và công cụ sản xuất để đồng bào tăng gia sản xuất. Cán bộ y tế về từng bản làng để chữa bệnh cho đồng bào, dập tắt dịch bệnh và chỉ dẫn đồng bào thực hiện các phương pháp vệ sinh phòng bệnh. Để giải quyết nạn lạt muối kéo dài triền miên và đang trở nên nghiêm trọng hơn bao giờ hết đối với đồng bào, theo chủ trương của trên, Huyện ủy và Uỷ ban Kháng chiến- Hành chính huyện huy động lực lượng tổ chức cuộc vận động cứu lạt với quy mô lớn. Trước hết, ta tổ chức đợt học tập chính trị về chủ trương cứu lạt của Liên khu ủy V cho toàn thể cán bộ, đảng viên trong huyện. Sau đó, cán bộ các xã về tổ chức cho nhân dân xã mình học tập và qua đó tự bình nghị, xếp loại người được hưởng trợ cấp. Nhìn chung, toàn thể nhân dân trong huyện đều được trợ cấp muối, nhưng phân ra làm ba hạng: người lạt ít được 1 kg, người lạt vừa được 2 kg và người lạt nặng được 3 kg. Bình nghị xong, các xã cử dân công lên huyện nhận muối về phát cho dân. Tổng số muối do Liên khu ủy cấp cho Trà My đợt này là 22 tấn.

Đợt cứu đói, cứu đau, cứu lạt muối lớn nhất trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở Trà My thành công tốt đẹp và có một ảnh hưởng rất lớn. Về sau, dù không còn vấn đề lạt muối như xưa, đồng bào các dân tộc thiểu số huyện Trà My vẫn còn nhớ mãi những hạt muối thấm đậm nghĩa tình của Bác Hồ và Đảng đã trợ giúp.

Cũng trong thời gian tổ chức cuộc cứu đói, cứu đau, cứu lạt ở miền tây Quảng Nam, Liên khu ủy V đã cho xây dựng thêm một số hành lang khác nối liền vùng đồng bằng Liên khu V với Tây Nguyên, nhằm phục vụ cho mặt trận bắc Tây Nguyên. Ba trong nhiều hành lang đó chạy qua địa phận huyện Trà My. Tuyến thứ nhất, từ đồng bằng Quảng Ngãi lên Trà Bồng (Quảng Ngãi) qua các xã Trà Ngok Giáp, Trà Ngok Tu, Trà Tak Bền của Trà My rồi lên Dak Glêi. Tuyến thứ hai từ Sơn Tây (Quảng Ngãi) lên Trà Tak Poa, Lon Lái, Mân Tra, Mường Luôm (Trà My) lên Ngok Spanh (Đak Tô). Tuyến thứ ba, từ đồng bằng Quảng Nam lên Trà My qua Nước Oa, Trà Giác, Dốc Dược, Nước Nà, gặp tuyến thứ nhất ở Mân Tra rồi lên Đak Glêi (Kon Tum). Nhân dân các dân tộc huyện Trà My, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và chính quyền địa phương, đã tích cực tham gia vào việc đào đắp, khai thông hành lang, xây dựng các trạm dừng chân, các kho tàng, tổ chức huy động dân công vận chuyển lương thực, hàng hóa phục vụ cho chiến trường Tây Nguyên. Mặt khác, sự hoạt động liên tục, sôi nổi của hàng ngàn, hàng vạn dân công Liên khu V trên các đoạn đường này đã góp phần tạo nên khí thế cách mạng tiến công, uy hiếp và áp đảo bọn gum, tề ở địa phương, tạo điều kiện cho quân dân các xã trước đây là vùng địch uy hiếp như Nam Bền, Bắc Bền, tây và nam Trà Tak Rây chuẩn bị nổi dậy diệt tề, giải tán gum, giải phóng thôn, nóc.

Về quân sự, đến đầu năm 1954, Trà My đã xây dựng một đại đội lực lượng vũ trang huyện, trong đó hai trung đội người Kinh và một trung đội là thanh niên các dân tộc thiểu số.

Ngày 26.1.1954, lực lượng vũ trang Liên khu V mở cuộc tấn công lớn vào Tây Nguyên, đây là hướng quan trọng của chiến dịch. Phối hợp với cuộc tiến công lớn này, bộ đội địa phương Trà My quyết định cùng với một lực lượng bộ đội chủ lực Liên khu V tấn công đồn Ngok Spanh, giáp với vùng Nam Bền, Bắc Bền của Trà My.

Công tác chuẩn bị đánh đồn Ngok Spanh rất khẩn trương. Nhân dân các dân tộc huyện Trà My tham gia đào đắp, mở con đường bậc thang từ Mân Tra lên Dốc Tố, qua Mường Luôn lên Kôsia và tích cực huy động dân công vận chuyển lương thực, tải đạn.

Tháng 2.1954, trong dịp Tết Nguyên đán, bộ đội địa phương Trà My và bộ đội chủ lực Liên khu V tiêu diệt đồn Ngok Spanh. Tin chiến thắng bay về các thôn, nóc, quần chúng rất phấn khởi.

Trước khi bộ đội địa phương Trà My và bộ đội chủ lực Liên khu V đánh đồn Ngok Spanh, nhân dân các dân tộc thiểu số vùng cao Trà My, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đoàn xây dựng vùng cao của huyện, nổi dậy giải tán gum, bắt quản thúc số ngụy tề trước đây ta chưa nắm được, cả số tề đã từng quan hệ với ta, nhằm đề phòng chúng có thể gây rối khi bộ đội ta tiến công tiêu diệt đồn Ngok Spanh.

Khi bộ đội tấn công đồn Ngok Spanh, thì ở Nam Bền, Bắc Bền cũng như tây và nam Trà Tak Rây, ta tiếp tục truy quét tề điệp, ra lệnh cho các gum phải nộp tất cả súng, đạn mà thực dân Pháp đã trang bị cho chúng trước đây. Địa điểm giao nộp là Mường Lươm (Nam Bền), Mô Mau (Bắc Bền), Mân Ri (Tây Rây, Nam Rây). Số súng- cả súng trường và tiểu liên- ta thu được hơn 200 khẩu. Thời điểm đồn Ngok Spanh bị hạ thì cuộc nổi dậy của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao Trà My cũng cơ bản hoàn thành; 27 tên tề đầu sỏ đã bị nhân dân bắt đi cải tạo, trong đó có một tên ngoan cố bị ta tiêu diệt.

Vùng cao Trà My, từ nhiều năm nay bị địch uy hiếp, nay được giải phóng. Đến đây, trên toàn huyện, kẻ thù của đồng bào bị quật ngã. Đồng bào các xã phấn khởi tổ chức lễ chiến thắng và rước ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, tạo không khí phấn khởi và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ trong nhân dân. Huyện ủy và Ủy ban Kháng chiến- hành chính huyện nhanh chóng củng cố và xây dựng mới một số Hội đồng nhân dân cấp thôn và xã, lãnh đạo nhân dân tăng gia sản xuất và phát triển phong trào dạy và học văn hoá... nhằm tạo nên một bước chuyển biến mới. Uỷ ban Kháng chiến- Hành chính huyện đã đưa ra khỏi hội đồng nhân dân các xã 60 hội viên yếu kém trong tổng số 150 hội viên hội đồng nhân dân xã và lựa chọn đưa vào chính quyền những cán bộ tích cực thuộc thành phần cơ bản. Do việc làm tích cực này, nên “vai trò của ủy ban, hội đồng trội hơn, nhân dân đã tham gia phê bình cán bộ ủy ban nhân dân và bắt đầu hiểu vai trò của chính quyền". Sinh hoạt của Hội đồng bắt đầu đi vào nền nếp: sinh hoạt, kiểm thảo, bàn bạc công tác... Vai trò của cán bộ địa phương được phát huy hơn trước. Riêng đối với Nam Bền, Bắc Bền, tây và nam Trà Tak Rây, trước là vùng bị địch uy hiếp, nay ta gấp rút xây dựng mới Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân xã.

Về phong trào dạy và học văn hoá, cho đến đầu năm 1954, toàn huyện có 4 trường cấp 1 với tổng số 170 học sinh, 34 lớp bình dân học vụ thu hút 640 người theo học. Phong trào dạy và học văn hóa mạnh nhất là ở các xã vùng thấp. Các xã này đều mở trường dạy chữ cho thanh thiếu niên. Số cán bộ người Kinh phụ trách các xã cũng tổ chức dạy chữ cho một số thanh niên và cán bộ xã, mỗi xã từ 5- 10 người.

Tháng 5.1954, tại Trà My, Ban cán sự miền Tây Quảng Nam mở lớp bồi dưỡng giáo viên cho 4 huyện: Bến Hiên, Bến Giằng, Phước Sơn, Trà My. Thời gian tập huấn là 10 ngày. Riêng Trà My, trong 6 tháng đầu năm, đã tự mở bốn đợt bổ túc nghiệp vụ cho giáo viên là người các dân tộc thiểu số ở địa phương, mỗi đợt 7 ngày. Tháng 6.1954, mở lớp bổ túc văn hóa cho 60 giáo viên, thời gian 10 ngày. Qua các lớp học tập, công tác giáo dục của huyện càng phát triển, đi vào chiều sâu. Học sinh rất chăm học. Chất lượng giáo viên người địa phương khá tốt và có khả năng đảm nhiệm lớp, thay dần cho giáo viên người Kinh.

Chữ viết- chữ phổ thông- đã đến với nhiều bản làng Trà My, xóa dần quan niệm lâu đời của đồng bào các dân tộc thiểu số trong huyện: “Cái chữ chỉ dành cho con Kinh". Cách mạng đem chữ viết và kiến thức khoa học đến cho đồng bào. Đến đây, thêm nhiều người Cadong, Xêđăng, Cor, Bh' oong biết đọc, biết viết. Nhiều người trở thành cán bộ, giáo viên. Đây là một thành công lớn mà cách mạng đã đem lại cho đồng bào về mặt văn hóa.

Bên cạnh phong trào dạy học và học văn hóa, phong trào văn nghệ nhân dân phục vụ kháng chiến, phong trào vệ sinh yêu nước....cũng có những tiến bộ đáng khích lệ. Nhiều bài hát chuyển từ tiếng phổ thông sang tiếng các dân tộc anh em phổ biến rộng khắp các bản làng. Tiếng hát cách mạng đi sâu vào tâm hồn đồng bào, nhất là lứa tuổi thanh niên, thiếu niên, nâng cao nhiệt tình yêu nước, yêu cách mạng của đồng bào. Quần chúng cũng đã bước đầu chú ý đến việc vệ sinh phòng bệnh.

Thực hiện chủ trương của Liên khu ủy V về việc tăng cường khả năng tự cung, tự cấp lương thực ở các huyện miền núi, Huyện ủy và Uỷ ban kháng chiến- Hành chính huyện đã vận động nhân dân tăng gia sản xuất và xây dựng thành công các tổ sản xuất vòng công, đổi công Đến tháng 7.1954, Trà My lập được 333 tổ sản xuất với 2.613 hội viên. Tổ xây dựng theo đơn vị bếp, nóc và dựa chủ yếu vào tầng lớp cơ bản. Cũng vào thời gian này, có thêm nhiều nơi, nhất là vùng thấp, đồng bào từng bước chuyển từ khai thác lâm thổ sản sang sản xuất, từ làm rẫy sang làm ruộng nước, điều này chứng tỏ nhân dân các dân tộc thiểu số ở Trà My có bước chuyển biến ban đầu từ đời sống du canh, du cư sang định canh, định cư

Công tác củng cố lực lượng vũ trang được huyện chú ý đúng mức. Đại đội độc lập của huyện được bổ sung đủ quân số. Lực lượng dân quân các xã Trà Tak Pui, Trà Ngok Đốc, Trà Tak Kót, Trà Tak Zút cũng được củng cố, tổ chức huấn luyện cho cán bộ tổ, cán bộ tiểu đội, mở hội nghị dân quân toàn xã để chấn chỉnh nền nếp sinh hoạt.

Tháng 5.1954, đồng chí Trần Hạnh Đức, Bí thư Huyện ủy đi dự chỉnh huấn lần thứ 2 ở Liên khu V; đồng chí Châu Cự Hải được cử quyền Bí thư Huyện ủy.

Trong khi đó, cuộc tấn công địch trên chiến trường cả nước của quân và dân ta thu nhiều thắng lợi có ý nghĩa quyết định, ngày 7.5.1954, đập tan tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, ngày 19.7.1954, quân và dân Quảng Nam tiêu diệt cứ điểm Bồ Bồ. Ngày 20.7.1954, thực dân Pháp buộc phải ký Hiệp định Giơ- ne- vơ, công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

Như vậy, qua chặng đường 9 năm đấu tranh kiên cường, bất khuất, cuối cùng với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và bằng Hiệp định Giơ-ne- vơ về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta kết thúc thắng lợi. Miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng, trở thành hậu phương lớn vững chắc của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Với niềm tự hào và xúc động sâu xa, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Trà My tổ chức trọng thể mít tinh chào mừng thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Tháng 8.1954, Huyện ủy Trà My tổ chức cuộc họp ở Gòi Xer, học tập các nhận định của ta về thắng lợi của Hiệp định Giơ- ne- vơ và tổ chức các đoàn cán bộ xuống tận các bản làng giải thích cho quần chúng ý nghĩa thắng lợi của Hiệp định. Huyện ủy cũng phân công cán bộ ở lại hoạt động. Đồng thời triển khai công tác chuyển hoạt động của Đảng bộ vào bí mật. Về công khai, Huyện ủy quyết định tổ chức tổ đoàn kết sản xuất để thông qua đó mà vận động, tổ chức nhân dân đoàn kết sản xuất, gìn giữ trật tự, an ninh bản làng và đấu tranh chống địch; bảo tồn cơ sở cách mạng, bảo vệ cán bộ cách mạng

Có thể nói với niềm tin sâu sắc vào sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, với những thành công và kinh nghiệm trong cuộc kháng chiến thực dân Pháp, nhất là những thành tựu có tính chất cách mạng sâu sắc đạt được qua cuộc vận động xây dựng miền núi và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược tại địa phương về xây dựng và phát huy khối đoàn kết dân tộc, đoàn kết giữa người Kinh và đồng bào các dân tộc thiểu số; xây dựng và phát triển phong trào tăng gia sản xuất tự túc lương thực, cứu đói, cứu đau và cứu lạt muối; xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hoá và giáo dục, từng bước hạn chế các phong tục, tập quán có hại cho đoàn kết và sản xuất; xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ người dân tộc..., Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Trà My vững vàng bước vào cuộc kháng chiến gay go, quyết liệt chống Mỹ, cứu nước, mà trước mắt là đấu tranh đòi địch thi hành Hiệp định Giơ- ne- vơ.

1. CHUYỂN HƯỚNG HOẠT ĐỘNG. GIỮ GÌN VÀ PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG (7.1954- 9.1959)

Theo nội dung Hiệp định Giơ- ne- vơ, miền Nam Việt Nam còn phải tạm thời nằm trong vòng kiểm soát của đối phương, chờ đến hai năm sau( tháng 7.1956) sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do để thống nhất nước nhà. Song đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã cố tình phá hoại hiệp định, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mỹ. Do vậy, cách mạng nước ta từ sau ký kết hiệp định Giơ- ne- vơ chuyển sang một giai đoạn mới- giai đoạn hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.

Thời điểm ký kết Hiệp định Giơ- ne- vơ, Huyện ủy Trà My còn lại 6 đồng chí. Đồng chí Châu Cự Hải làm quyền Bí thư Huyện ủy. Ngày 25.8.1954, quân địch lên tiếp quản Tiên Phước và lần mò lên Trà My để nắm tình hình. Huyện ủy Trà My đang đứng chân tại Tiên Trà phải dời cơ quan về xã Nú (1). Tại đây, Huyện ủy tổ chức một hội nghị quan trọng bàn việc chuyển hướng hoạt động của Đảng bộ cho phù hợp với tình hình mới của cách mạng.

Hội nghị Huyện ủy nhận định: Địch chiếm đóng Tiên Phước và đang tiến lên Trà My. Chúng đang khẩn trương thu thập tình hình của ta để chuẩn bị tổ chức đánh phá phong trào cách mạng của địa phương và lập chính quyền ở các xã vùng giáp ranh, đẩy cán bộ, đảng viên ra khỏi quần chúng. Đối với vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, điểm chú ý ban đầu của địch là vùng thấp, trong đó trọng tâm sẽ là các xã Kót, Nú, Zút. Địch chọn các xã này bởi hai lẽ: Một là Kót, Zút, Nú đang là vùng đứng chân và nơi đồng bào dân tộc thiểu số nuôi nấng, giúp đỡ cán bộ ta; hai là chúng chưa thể vươn xa vào sâu miền núi và chưa thể đánh phá tràn lan. Thủ đoạn của chúng đối với vùng đồng bào các dân tộc thiểu số trong thời gian trước mắt chủ yếu là tung gián điệp lên các nóc, đồng thời kết hợp khai thác số thương lái người Kinh buôn bán ở miền núi cũng như số người dân tộc thiểu số đi trao đổi mua bán ở vùng đồng bằng để dò la tin tức, nắm tình hình, chuẩn bị một bước tiến lên miền núi khi có điều kiện.

Từ nhận định trên, dựa vào chủ trương của Trung ương và của Tỉnh ủy, Huyện uỷ chủ trương chuyển hoạt động vào bí mật, chuyển phong trào từ đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh quân sự sang đấu tranh chính trị đơn thuần, từ bất hợp pháp sang hợp pháp và nửa hợp pháp, đấu tranh đòi địch thi hành Hiệp định Giơ- ne- vơ, chống khủng bố, đồng thời bảo tồn được lực lượng ta. Từ chủ trương chung, Hội nghị vạch ra các chủ trương, biện pháp cụ thể:

- Chống địch điều tra và khai thác tình hình ta.

- Chống truy tìm, khủng bố cán bộ, đảng viên, cơ sở của ta; khéo léo đấu tranh, giằng co, kéo dài việc địch tổ chức, lập ngụy quyền, đồng thời chuẩn bị cơ sở của ta trong bộ máy chính quyền địch.

- Giải thể chính quyền và các đoàn thể quần chúng, khẩn trương xây dựng cơ sở ở vùng giáp ranh (vùng đồng bào Kinh), chú ý xây dựng cơ sở trong thương lái, tích cực tranh thủ nắm tầng lớp trên, nhất là những người được địch chú ý và những người dao động, lưng chừng.

- Chuyển hướng hoạt động của Đảng bộ vào bí mật, chia các chi bộ xã ra làm nhiều chi bộ nhỏ. Cán bộ, đảng viên cố giữ thế hợp pháp, chỉ tạm lánh khi cần thiết.

- Vận động, tổ chức quần chúng đấu tranh đòi địch phải để đồng bào tự do đi lại, tự do giao lưu, buôn bán giữa đồng bằng với miền núi; tổ chức phối hợp đấu tranh giữa vùng giáp ranh trung châu (Tiên Trà, Tiên Hương, Xuân Bình, Phú Thọ, Tứ Mỹ, Tiên Lãnh, Tiên Ngọc) với vùng miền núi (Kót, Nú, Zút, Pui và Đốc).

- Khẩn trương dự trữ một số hàng hóa cần thiết cho hoạt động lâu dài như vải, ny lon, thuốc chữa bệnh, muối...

Riêng đối với vùng trung và vùng cao, Hội nghị chủ trương tiếp tục tuyên truyền phổ biến Hiệp định Giơ- ne- vơ, đẩy mạnh sản xuất, chống, cứu đói, đồng thời tổ chức phân tán cất giấu tài sản, nhất là lúa gạo, muối, công cụ; theo dõi, phòng chống tình báo, gián điệp trong thương lái và nắm chắc tình hình diễn biến tư tưởng của quần chúng, chú ý tầng lớp trên.

Hội nghị phân công các đồng chí cấp ủy phụ trách vùng, đồng thời chỉ định cán bộ, đảng viên phụ trách xã, nhằm bám sát cơ sở, bám sát tình hình, theo dõi chỉ đạo phong trào, lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống Mỹ- Ngụy và bảo tồn lực lượng cách mạng.

Sau hội nghị này, Huyện ủy đã sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, cho một số cán bộ người đồng bằng về lại địa phương để đi tập kết, riêng số cán bộ dự kiến được bố trí ở lại được phân công xuống các vùng để lãnh đạo quần chúng. Huyện ủy cũng chủ trương chuyển các đảng viên người Kinh ở các xã vùng thấp sinh hoạt với chi bộ địa phương, ở các xã vùng cao thì lập các chi bộ ghép. Toàn huyện có các chi bộ ghép sau: - Chi bộ ghép các xã Rây, Nam Bền, Bắc Bền, Cang; chi bộ ghép các xã Tu, Giác, Riềng, Poa; chi bộ ghép các xã Leng, Iếp, Pui. Huyện ủy cũng thông báo cho nhân dân các địa phương đến cơ quan cũ của huyện ở Tiên Trà để nhận số muối, gạo và nông cụ của ta dự trữ trước đây đem về sử dụng.

Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, Liên khu ủy V giải thể Ban Cán sự miền Tây Quảng Nam và giao miền Tây Quảng Nam cho Tỉnh uỷ Quảng Nam chỉ đạo. Để chỉ đạo trực tiếp phong trào cách mạng ở miền núi, Tỉnh ủy Quảng Nam đã lập Đoàn công tác xây dựng miền núi do đồng chí Hoàng Trọng Dĩnh làm trưởng đoàn. Đồng chí Trần Hạnh Đức, Bí thư Huyện ủy Trà My đi dự chỉnh huấn ở Liên khu về cũng được bổ sung vào đoàn công tác này. Nhiệm vụ của đoàn là nắm tình hình các huyện để báo cáo với tỉnh, giúp các huyện phát hiện và đề xuất với địa phương cách giải quyết, trường hợp không thống nhất phải xin ý kiến của tỉnh.

Từ cuối năm 1954, Huyện ủy Trà My cũng như hầu hết các huyện miền núi bị đứt liên lạc với Tỉnh ủy. Tỉnh ủy cũng đứt liên lạc với Liên khu uỷ V. Đồng chí Huỳnh Thiện, trên đường vào Trà My truyền đạt Nghị quyết của Tỉnh ủy, với sự giúp đỡ của Huyện ủy Trà My đã vào Bình Định và tại đây đã bắt được liên lạc với Liên Khu uỷ V và từ đó nối được liên lạc giữa Liên khu uỷ V với Tỉnh uỷ và các Huyện uỷ(1).

Mở đầu phong trào đấu tranh của nhân dân Trà My là tham gia cuộc đấu tranh ở ngã ba An Lâu, đòi địch thi hành Hiệp định Giơ- ne- vơ. Khoảng hai tháng sau khi ký Hiệp định Giơ- ne- vơ, một đại đội địch đến xã Tam Lãnh, Tam Kỳ và đóng quân tại sân vận động gần ngã ba An Lâu. Một tuần sau chúng giở trò khiêu khích: xé hết các băng, biểu ngữ, xóa, đạp hết các pa- nô, áp phích của ta tuyên truyền về Hiệp định Giơ- ne- vơ được treo, dán ở ngoài đường lẫn trong nhà dân. Bị quần chúng phản đối, bọn lính trả lời: Hiệp định Giơ-ne-vơ không phải của “Quốc gia”. Chúng được lệnh phải phá bỏ hết các khẩu hiệu tuyên truyền về hiệp định này. Do đó, nhiệm vụ của ta là đấu tranh, ngăn cản hành động của địch. Ta dựa vào nội dung Hiệp định làm cơ sở pháp lý để đấu tranh. Thời gian đấu tranh diễn ra vào 8 giờ sáng hôm sau tại ngã ba An Lâu.

Được vận động, 50 đồng bào dân tộc thiểu số ở các nóc ông Truyền, ông Danh, ông Xoay, ông Ốc, xã Kót đã hăng hái hưởng ứng đấu tranh Đúng 8 giờ sáng, đồng bào hòa nhập vào dòng người đấu tranh ở ngã ba An Lâu. Quần chúng tràn vào sân vận động, kéo đến sát các lều của bọn lính. Mọi người đồng thanh phản đối hành động phá hoại hiệp định của địch, buộc chúng phải kẻ lại các khẩu hiệu, dựng các panô, biểu ngữ như cũ, nếu không sẽ kiện lên Ủy ban giám sát quốc tế. Bọn lính ngoan cố không chấp nhận yêu sách của đồng bào. Hai giờ chiều hôm đó, đồng bào lại kéo đến sân vận động, mọi người đều cầm theo gậy, gộc, rìu, rựa...Tình hình trở nên căng thẳng. Có viện binh từ Ngọc Bích, Tam Kỳ lên, bọn địch đàn áp dã man những đồng bào tham gia đáu tranh. Do chưa chuẩn bị chu đáo, lại bất ngờ trước sự đàn áp mạnh mẽ của địch, quần chúng tham gia cuộc biểu tình bối rối, bị động và giải tán sau một hồi giằng co xô xát với lính địch.

Cuộc đấu tranh ở ngã ba An Lâu, trong đó có sự tham gia của đồng bào dân tộc thiểu số tuy chưa buộc được địch thực hiện yêu sách, song đã có kết quả bước đầu là tập dượt quần chúng đấu tranh trực diện với Mỹ- ngụy, thể hiện được tinh thần cách mạng của nhân dân, cả người Kinh lẫn người dân tộc thiểu số.

Sau cuộc đấu tranh này, Huyện ủy Trà My vừa tích cực ổn định tình hình tư tưởng nhân dân, gây dư luận rộng rãi trong nhân dân phản đối hành động phá hoại Hiệp định Giơ- ne- vơ, đồng thời kịp thời nắm tình hình để đối phó với những âm mưu mới của địch, xây dựng những người tích cực trong đấu tranh thành cơ sở trung kiên. Chính nhờ đó, sau những vụ đàn áp khủng bố của địch, tinh thần của quần chúng nhân dân trong huyện được giữ vững

Đúng như Huyện ủy nhận định, khi lên Trà My địch đã nhanh chóng nắm các xã vùng thấp. Chúng đã tích cực nắm dân và lập được chính quyền ở Pui và Đốc. Bọn phản động ngóc đầu dậy câu kết với địch để chống phá cách mạng. Có tên còn bắt cán bộ ta để nộp cho địch. Một số quần chúng tỏ ra hoang mang, dao động. Có thể nói tình hình vùng thấp, đặc biệt là Pui, Đốc diễn biến rất phức tạp. Trước tình đó, tháng 3.1955, cơ quan Huyện ủy phải di chyển từ Nú lên Giác. Tháng 5. 1955, Huyện ủy tổ chức hội nghị nhằm đề ra các chủ trương chấn chỉnh tình hình, vạch rõ các công tác trọng tâm và lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống địch khủng bố.

Hội nghị nhận định: Địch đang nắm vùng giáp ranh và vùng thấp, đồng thời có thể lợi dụng ta đang lo tập trung đối phó ở vùng thấp nên có thể tiến công lên vùng trung, vùng cao. Tình hình mới, đòi hỏi ta phải có những giải pháp kịp thời, đúng đắn, đi sát thực tế, sát tình hình. Vấn đề đặt ra lúc này là phải tích cực tranh thủ thời gian, mọi sự chậm trễ có thể dẫn đến tổn thất cho phong trào, phải đẩy mạnh đấu tranh chống khủng bố, chống “Tố cộng” ở vùng thấp, chỉ đạo sâu sát, có hiệu quả ở vùng đường nước, quyết không cho địch lấy Pui, Đốc làm bàn đạp để tiến lên vùng trung, vùng cao. Hội nghị nhận thấy: Cần rà soát và phân loại lại đội ngũ cán bộ người địa phương (tích cực, lưng chừng, dao động...) để có đối sách đúng đắn, ra sức xây dựng khối đoàn kết nhân dân, đồng thời tranh thủ cho được tầng lớp trên, nhất là số tù trưởng, chánh tổng, chủ làng (cũ) và những người có uy tín và uy thế trong nhân dân. Hội nghị quyết định thành lập một bộ phận để chỉ đạo các xã vùng thấp và vùng giáp ranh. Vùng trung, vùng cao đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Huyện ủy. Vùng đường nước (phía bắc) được đặc biệt coi trọng.

Nhằm tăng cường công tác chỉ đạo miền núi, được sự đồng ý của Liên khu ủy V, Tỉnh ủy Quảng Nam đã quyết định thành lập Ban Cán sự miền Tây Quảng Nam. Tháng 7. 1955, Hội nghị thành lập Ban Cán sự miền Tây được tổ chức tại Pacăng, huyện Bến Giằng. Ban Cán sự do đồng chí Hoàng Trọng Dĩnh phụ trách.

Sau khi thành lập Ban Cán sự miền Tây, Tỉnh ủy đã quyết định củng cố lại Huyện ủy Trà My. Huyện ủy Trà My theo chỉ định của Tỉnh ủy gồm 5 đồng chí. Đồng chí Huỳnh Thiện được cử giữ chức Bí thư Huyện ủy, đồng chí Châu Cự Hải làm Phó Bí thư Huyện ủy.

Các mặt công tác được triển khai nhanh chóng. Đồng chí Huỳnh Thiện, Bí thư Huyện ủy được Tỉnh ủy phân công phụ trách thêm cánh nam Tiên Phước, đã trực tiếp chỉ đạo bộ phận phụ trách các địa phương: Nú, Kót, Zút, Phương Đông, Dương Yên, Tứ Mỹ (sau gọi là Ban Cán sự cánh Nam Tiên Phước). Ở Pui, Đốc, địch lập Hội đồng Hương chính, nhưng chưa thể vượt qua phía bên kia sông Trà Pui. Ta vẫn quản lý làng Tak Ca thuộc Pui và từng bước xây dựng được cơ sở ở Pui và Đốc. Vùng trung, vùng cao tình hình vẫn ổn định, địch chỉ nắm được một số thương lái để qua đó nắm tình hình ta song chúng không thu được kết quả. Ta cũng nắm được một số người tiêu biểu trong tầng lớp trên trong đồng bào các dân tộc thiểu số.

Tháng 10.1955, Ban Cán sự miền Tây Quảng Nam tổ chức lớp chỉnh huấn chính trị cho 30 cán bộ của hai huyện Trà My và Phước Sơn. Lớp học mở tại làng Xuân Mãi, xã Phước Kim, huyện Phước Sơn, thời gian học trong một tháng. Nội dung lớp học tập trung vào mấy vấn đề chính: Quán triệt tình hình và nhiệm vụ sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, chuyển hướng và phương thức hoạt động bí mật trong điều kiện ta giải thể chính quyền, đoàn thể; nhiệm vụ xây dựng căn cứ địa miền núi và các chính sách dân tộc của Đảng.

Đến tháng 11.1955, Huyện ủy tổ chức Hội nghị triển khai thực hiện các chủ trương của Ban Cán sự miền Tây Quảng Nam. Dựa vào định hướng chung của Ban Cán sự miền Tây và tình hình thực tế trước mắt của địa phương, Huyện ủy đề ra các chủ trương cấp bách:

- Lãnh đạo quần chúng giữ vững thế đấu tranh hợp pháp, đề phòng manh động.

- Phân tích âm mưu của địch và giáo dục chủ trương của ta làm cho quần chúng tin Đảng, tin tưởng Bác Hồ.

- Tích cực xây dựng cơ sở mới, nhất là trong thành phần cơ bản.

- Chuyển hướng hoạt động của các tổ chức; giải thể chính quyền ở vùng trung, vùng cao, thành lập các tổ đoàn kết sản xuất. Cán bộ người Kinh phải đi sát quần chúng, thực hiện “ Ba cùng”.

- Đẩy mạnh sản xuất chống đói, cứu đói và vận động phong trào vệ sinh phòng bệnh.

Các chủ trương trên đây đã được các địa phương trong huyện quán triệt và nghiêm túc thực hiện. Hiện tượng mạnh động không xảy ra. Mấy lần đồng bào Xar Xung, Phục Lục, Tak Doan dự định tổ chức phục kích ở dốc Nước Ta để diệt bọn lính từ Kom Tum xuống hoặc từ Trà My lên nhưng các đồng chí phụ trách địa phương biết được nên đã kịp thời ngăn chặn, giải thích cho đồng bào biết điều kiện đấu tranh vũ trang chưa có, các hành động manh động sẽ gây ảnh hưởng xấu cho thế đấu tranh hợp pháp. Ta cũng giáo dục sâu, kỹ hơn cho quần chúng, làm cho quần chúng thấy được bản chất xấu xa, bán nước của Ngô Đình Diệm và chế độ của Diệm. Ta lấy các việc làm thực tế của địch như cấm giao lưu buôn bán giữa miền núi với đồng bằng... để dẫn chứng cho đồng bào hiểu. Về xây dựng cơ sở, ta tổ chức được nhiều cơ sở quần chúng thuộc thành phần cơ bản, có khả năng giúp cán bộ nắm tình hình địch và nắm diễn biến tư tưởng của tầng lớp trên. Về sản xuất, ta từng bước vận động đồng bào tăng gia sản xuất để chống đói và cải thiện đời sống, đặc biệt là đối với những nơi đồng bào nặng về buôn bán, trao đổi hàng hóa, nhẹ về sản xuất lương thực. Về y tế, vận động sử dụng các vị thuốc Nam để chữa bệnh thông thường cho nhân dân, đồng thời vận động đồng bào vệ sinh nhà cửa, làng bản...

Không chỉ lo xây dựng và phát triển phong trào cách mạng ở địa phương, Trà My còn có nhiệm vụ giúp đỡ các địa phương bạn đứng chân hoạt động.

Sau Hiệp định Giơ- ne- vơ được ký kết, Huyện ủy Tam Kỳ bị đứt liên lạc với Tỉnh ủy. Đến năm 1955, một số đồng chí lãnh đạo của huyện Tam Kỳ lên Trà My và qua Huyện ủy Trà My nối lại liên lạc với Tỉnh ủy. Đầu năm 1956, địch khủng bố gắt gao ở đồng bằng, một trăm cán bộ, đảng viên Tam Kỳ phải lên dựa vào xã Zút và giữa năm đó thì được tập kết ra miền Bắc. Cuối năm 1959, Huyện ủy Tam Kỳ chuyển cơ quan từ vùng giáp ranh Tam Kỳ- Trà My và dựa vào các nóc Hố Thượng, nóc Hố Trung, Đá Rỗ, ông Bin.. để từ đây về địa phương xây dựng cơ sở. Đồng thời, cũng trong năm 1959, Huyện ủy Tam Kỳ đã rút thanh niên đưa lên xã Zút luyện tập quân sự và tổ chức lực lượng vũ trang của huyện...

Đối với Tiên Phước, sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, tình hình trong huyện có nhiều khó khăn, phức tạp. Để đi sát chỉ đạo phong trào quần chúng, Huyện ủy Tiên Phước thành lập hai Ban Cán sự phụ trách: Ban Cán sự cánh Nam do ở xa cơ quan Huyện ủy Tiên Phước trong đó lại ở gần Huyện ủy Trà My hơn, do vậy được sự thống nhất giữa hai Huyện ủy mà trực tiếp là đồng chí Đào Đắc Trinh, Bí thư Huyện ủy Tiên Phước và đồng chí Huỳnh Thiện, Bí thư Huyện ủy Trà My, Ban Cán sự cánh Nam Tiên Phước vẫn thuộc của Tiên Phước song các mặt hoạt động trực tiếp do Huyện ủy Trà My chỉ đạo.

Ban Cán sự cánh Nam Tiên Phước dựa vào các xã Nú, xã Kót. Tại đây, Ban Cán sự đã cho một số cán bộ tập kết ra Bắc, chỉ để lại một số đồng chí chủ chốt như Trần Thị Liễn, Phạm Lâm... Gần cuối năm 1959, Ban Cán sự tổ chức các đội công tác, từ vùng bàn đạp xã Nú về vùng ranh Trà My- Tiên Phước móc nối, xây dựng cơ sở

Trà My còn là chỗ dựa cho huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Do địch đánh phá ác liệt nên thời gian này Huyện ủy Bình Sơn không thể trụ bám được ở địa phương mà phải chuyển cơ quan lên xã Zút. Từ đây cán bộ Huyện ủy Bình Sơn trở về địa phương móc nối xây dựng cơ sở, nắm tình hình và chỉ đạo quần chúng chống địch. Đến năm 1958, cơ quan Huyện ủy Bình Sơn mới chuyển về địa phương

Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, địch đến tiếp quản tỉnh Kon Tum, xây dựng ngụy quyền, kiểm soát gắt gao việc hoạt động của ta. Vì vậy đường dây liên lạc của tỉnh Kon Tum với Đak Glêi đi qua Măng Xim của huyện Sơn Hà, rồi qua phía Bắc huyện Kon Plong lên Đak Glêi chưa thể thông suốt. Để đảm bảo việc chỉ đạo được thông suốt giữa tỉnh với huyện và ngược lại, được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Kon Tum, Huyện ủy Đak Glêi yêu cầu Huyện ủy Trà My giúp đỡ cho huyện Đak Glêi mở hành lang liên lạc từ tỉnh Kon Tum xuống huyện Đak Glêi qua địa phận các xã Rây, Don và Cang. Theo yêu cầu đó, Huyện ủy Trà My giao cho các xã Don, Rây, Cang có trách nhiệm giúp đỡ huyện bạn xây dựng hành lang, đồng thời bố trí người liên lạc, đưa đón cán bộ, kịp thời phản ánh tình hình có liên quan để Huyện ủy giải quyết. Hành lang này tồn tại trên địa bàn Trà My đến cuối năm 1958 khi Huyện ủy Đak Glêi chuyển tuyến hành lang đi nơi khác.

Năm 1955, nhằm nối thông liên lạc giữa miền Nam với miền Bắc, trục hành lang Nam- Bắc đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước được xoi mở. Hành lang này chủ yếu phục vụ vận chuyển công văn và đưa đón cán bộ. Đoạn hành lang qua địa phận Trà My, có lúc do địch lấn chiếm nên có sự xê dịch nhất định, song đầu mối phía bắc bảo đảm nằm ở xã Leng để tiếp nối với huyện Phước Sơn và đầu mối phía nam nằm ở xã Rây để tiếp nối với huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi. Đoạn hành lang này được chia làm 5 trạm chính, tương đối ổn định: Mường Ron, Trảng Chổi (hoặc Mân Ác), Tak Lũ, Kon Rót, Nước Mùa. Huyện ủy phân công một đồng chí huyện ủy viên phụ trách đoạn hành làng này.

Từ năm 1955, ở Trà My, cùng với việc củng cố hệ thống ngụy tề ở các xã Pui, Đốc, Mỹ-Diệm từng bước mở rộng phạm vi hành quân càn quét. Lúc bấy giờ con đường giao thông chính từ vùng Pui, Đốc lên Leng, Iếp là con đường dọc theo Nước Leng ( ở phía nam Ngok Xút). Quân ngụy, bọn tề điệp và thương lái thường đi lại trên con đường này, gây trở ngại lớn cho việc liên lạc và đi lại hoạt động của ta. Để khắc phục tình trạng trên, mỗi khi cán bộ đi công tác thì lực lượng thanh niên có nhiệm vụ cảnh giới, bảo vệ. Càng về sau, trước sự tăng cường hoạt động của địch và do yêu cầu cách mạng ngày càng cao, việc xây dựng một đường dây an toàn được đặt ra. Đội thanh niên nửa vũ trang Nước Ca là lực lượng chính tham gia mở đường. Ta nhờ Già Tăng, làng Nước Ca (Tak Ca)- một người hiểu biết nhiều đường núi trong vùng làm nhiệm vụ dẫn đường. Được tin nhân dân làng Nước Ca mở hành lang lên vùng mình, nhân dân làng Xar Xung, xã Leng cũng nhanh chóng tổ chức lực lượng phát rừng mở đường đi xuống. Sau ba ngày, hai đoàn mở đường gặp nhau. Hành lang an toàn khai thông. Con đường từ Nước Ca lên Leng, Iếp được xây dựng, mở ra một lối đi thuận lợi, an toàn cho cán bộ và nhân dân ta, bảo đảm sự chỉ đạo thông suốt của huyện với Pui, Đốc. Sự hình thành con đường này là một biểu hiện sâu sắc về tinh thần cách mạng của quần chúng, về lòng dân gắn với Đảng.

Đầu năm 1956, bọn địch ở Đak Tô xuống Đak Rõ bảo Đãi Ma Niên- trước đây làm chánh tổng, cưỡng ép hàng trăm người dân Đak Rõ và một số đồng bào Mân Ri, cùng với chúng vây và cướp sạch đốc, ché, thanh la của bà con Lon Lái, Măng Lin. Nhân dân Lon Lái, Mườn Lin và quanh vùng tỏ ra hoang mang, dao động. Nhiều người chưa hiểu hết âm mưu của địch, đòi kéo lên nóc ông Đãi Ma Niên “ trả đầu”. Trước tình hình đó, Huyện ủy Trà My nhận định đây không chỉ là vụ cướp tài sản bình thường mà chủ yếu là địch đang thực hiện âm mưu gây mất đoàn kết dân tộc mà Đảng đã dầy công xây dựng, để dễ nắm dân, gây cảnh xô phạt “trả đầu” giữa làng này với làng khác và lập ngụy quyền tay sai. Huyện ủy chủ trương khẩn trương ổn định tư tưởng quần chúng, vạch cho nhân dân thấy được âm mưu của địch, không để xảy ra cảnh xô phạt “trả đầu”, chém giết lẫn nhau. Đồng thời không được để cho dân chạy bất hợp pháp. Đối với bọn phản động địa phương, phải bằng mọi biện pháp phân hóa, lôi kéo bọn tay chân, trung lập bọn lưng chừng và cô lập bọn đầu sỏ, ngăn chặn chúng chạy vào đồn địch hoặc kéo dân chạy bất hợp pháp, gây khó khăn cho phong trào. Đối với nhân dân nóc ông Đãi Ma Niên phải khẩn trương nắm tình hình, xây dựng cơ sở và phát động đấu tranh với bọn phản động. Đối với nhân dân trong huyện gây dư luận rộng rãi phản đối hành động cướp bóc của địch, nâng cao lòng căm thù địch, giáo dục nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Đồng thời với các công tác trên, ta phải tổ chức cho quần chúng đấu tranh trực diện với địch, lấy xã Rây làm xung kích và vận động các xã khác hỗ trợ. Phương châm chỉ đạo đấu tranh là bình tĩnh, thận trọng nhưng kiên quyết, khôn khéo.

Huyện ủy cử đồng chí Châu Cự Hải, Phó Bí thư Huyện ủy lên Lon Lái họp cán bộ cốt cán để ổn định tình hình. Tiếp đến Huyện ủy cử đồng chí Hà Lân lên xây dựng phong trào ở xã Rây. Ta cũng vận động nhân dân cô lập được tên Đãi không tên này để lôi kéo nhân dân chạy bất hợp pháp.

Sau khi ổn định tình hình xong, ta cử 2 đoàn quần chúng đi đấu tranh trực diện với địch. Đoàn đi Tiên Phước đi trước, gồm 4 người. Ta chọn Tiên Phước vì bọn địch chủ chốt ở Trà My chủ yếu đóng tại đây và nhằm lợi dụng bọn địch ở Trà My, Tiên Phước đứng về mặt quản lý lãnh thổ, đẩy bọn địch ở Đak Tô ra khỏi địa phương. Tại Tiên Phước qua đấu tranh tên quận trưởng phải nhận lỗi là “Quốc gia” có hành động cướp bóc của dân và hứa sẽ điện cho bọn địch ở Đak Tô bồi thường cho đồng bào. Đoàn đi Đak Tô gồm 5 người. Mục đích đấu tranh và phương thức đấu tranh như cũ. Tên quận trưởng cũng đã nhận tội là có ăn cướp của dân song lại đôi chối, cho vụ này là do bọn lính ở Trà My, Tiên Phước.

Cuộc đấu tranh trực diện với bọn địch ở Tiên Phước và Đak Tô thu được thắng lợi, càng tạo thêm không khí phấn khởi trong nhân dân. Quần chúng càng thêm tin Đảng. Các đoàn đại biểu về báo cáo lại với làng: Đảng, Bác Hồ giỏi quá, cán bộ Cụ Hồ nói trúng cái bụng thằng địch. Thế nào ta cũng thắng Mỹ- Diệm.

Việc thực hiện “Ba cùng” được cán bộ, nhất là cán bộ người Kinh thực hiện triệt để. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, số cán bộ người Kinh ở Trà My hơn 20 người. Để khỏi bọn địch phát hiện, phần lớn số cán bộ này phải sống trong rừng, ngoài rẫy. Tuy nhiên, sống như vậy là không nắm được dân và đời sống không đảm bảo. Do đó, Huyện ủy đã chủ trương phải về sống trong dân, hòa nhập với nhân dân và đó là cơ sở để vận động đồng bào tham gia kháng chiến. Theo chủ trương đó, các cán bộ người Kinh thay đổi nếp sống, cải dạng như người dân tộc thiểu số từ việc phải đóng khố, để tóc dài, ăn trầu, đeo cườm, căng tai, làm cho da sạn đen; phải tập phát rẫy giữa trưa, phải mang dụ, phóng lao, phải đi chân đất; làm cho tóc rối bù lên. Phải học tiếng nói của người dân tộc thiểu số, phải hiểu phong tục tập quán của mỗi dân tộc và mỗi vùng; phải học hát, học múa. Nhờ cải trang đó mà nhiều đồng chí đã không bị địch phát hiện, kể cả những lúc trực diện với chúng. Chính vì hóa thân và cùng hòa mình với nhân dân nên cán bộ người Kinh được đồng bào các dân tộc thiểu số rất thương yêu, tạo mọi điều kiện hoạt động.

Tháng 5.1956, Huyện ủy Trà My họp đánh giá tình hình chỉ đạo trong thời gian qua. Hội nghị nhận định: Qua cuộc vận động ổn định tình hình quần chúng sau vụ Lon Lái và qua lãnh đạo hai cuộc đấu tranh trực diện với bọn địch ở Tiên Phước và Đak Tô, nhân dân trong hụyện đã nhận rõ hơn âm mưu, thủ đoạn của địch, đồng thời tin tưởng hơn nữa vào sự lãnh đạo của Đảng và sức mạnh của mình và qua đó, ta đã phát triển thêm được một số cơ sở, đưa phong trào cách mạng toàn huyện tiến lên một bước. Tuy nhiên, ta vẫn còn những mặt hạn chế như quần chúng một số nơi vẫn còn có tư tưởng manh động, cán bộ cũ còn lo sợ bị địch khủng bố, một số người thuộc tầng lớp trên còn có tư tưởng dao động, lưng chừng dễ bị địch khống chế, ép buộc làm tay sai. Cơ sở cách mạng tuy có phát triển song vẫn còn ít và yếu.

Để phát huy những kết quả đã đạt, khắc phục những mặt hạn chế, đưa phong trào tiến lên, Huyện ủy đề ra phương án tiếp tục phát động quần chúng, giải quyết các vấn đề còn vướng mắc, kết hợp vận động rộng rãi với vận động cá biệt, nắm chắc thành phần cơ bản, nhanh chóng phát triển cơ sở rộng rãi khắp các bản, làng, chú ý những nơi phong trào yếu, nắm chắc số cán bộ cũ và chỉ sử dụng số vững vàng, tiến hành vận động và phân loại tầng lớp trên. Đối với số chánh tổng cũ, tù trưởng có uy tín thì phải đưa cán bộ người Kinh hoặc cán bộ người dân tộc thiểu số có trình độ, có uy tín đến tiếp cận để giáo dục, đồng thời dùng lực lượng quần chúng đông đảo vừa vận động vừa áp đảo không để một ai chạy theo địch. Đối với xã Rây thì cán bộ phải bám sát cơ sở, nắm lại Đak Rõ, phân hóa, cô lập bọn phản động ở đây để khi có điều kiện thì lập tòa án đưa ra xét xử nhằm hạ uy thế chúng và nâng cao khí thế cách mạng của quần chúng. Đồng thời phải xây dựng vùng Măng Gri, Đak Rõ vững vàng để đấu tranh chống lại sự xâm nhập của địch từ Kon Plong và Đak Tô xuống. Tăng cường chỉ đạo vùng trung và vùng cao, nhất là vùng giáp ranh như Riềng, Poa, Nam Bền, Bắc Bền, Iếp và các làng Triêng, Trang, Mường Ron của xã Leng để đề phòng địch cài cấy gián điệp hoặc tổ chức ngụy quyền bí mật. Đối với vùng thấp thì tập trung đẩy mạnh đấu tranh chống địch khủng bố, chống “Tố cộng”; chống lập lực lượng vũ trang, chống bắt lính, đòi tự do đi lại buôn bán, làm ăn. Đồng thời phát triển cơ sở ở vùng giáp ranh, trong đó chú ý đến cơ sở trong ngụy quyền, dân vệ và binh lính địch, vận động các cơ sở tiếp tế hàng hóa cho cách mạng.

Theo chủ trương của hội nghị Huyện uỷ, tháng 6.1955 cơ quan Huyện ủy chuyển lên nóc ông Giáp, xã Poa để thuận lợi trong chỉ đạo cả vùng trung và vùng cao, hơn nữa vùng thấp đã có Ban Cán sự cánh Nam Tiên Phước.

Từ đầu năm 1956, Ban Cán sự miền Tây Quảng Nam đã chủ trương xây dựng xã toàn diện ở các huyện miền núi, trước tiên mỗi hụyện chọn một xã. Đối với Trà My, Huyện ủy và Ban Cán sự miền Tây thống nhất chọn xã Iếp để xây dựng thành xã điểm của huyện. Sỡ dĩ chọn xã Iếp vì đây là một xã có vị trí quan trọng, là đầu mối từ Trà My đi lên, từ Tak Minh, Tak Xau, tỉnh Kon Tum đi xuống, bọn địch từ Kon Tum có thể xuống Iếp để bắt liên lạc với bọn ngụy quân, ngụy quyền Trà My và ngược lại... Ở Iếp trong kháng chiến chống Pháp, trong một chừng mực nào đó, ta chưa sâu sát quần chúng, do đó giác ngộ của đồng bào có hạn chế, tinh thần đấu tranh chống địch có yếu. Về kinh tế, Iếp có mặt mạnh về nghề trồng quế song lại yếu về sản xuất nông nghiệp. Về văn hóa, xã hội thì vấn đề ăn ở của đồng bào còn thiếu tiện nghi, mất vệ sinh. Chọn xã Iếp, Huyện ủy và Ban Cán sự miền Tây thống nhất cần tập trung vào hai vấn đề lớn: Một là nâng cao giác ngộ cách mạng cho quần chúng; hai là vận động, hướng dẫn cho đồng bào tổ chức sản xuất để chống đói và từng bước cải thiện đời sống. Ở miền núi nói chung, Iếp nói riêng, nếu để tình trạng đói cơm, lạt muối thì chẳng những đời sống đồng bào khổ cực, ta không có chỗ dựa mà địch còn lợi dụng tuyên truyền xuyên tạc và tìm cách mua chuộc, lôi kéo đồng bào.

Kết quả qua vận động, giáo dục, giác ngộ, quần chúng hiểu được âm mưu đen tối của Mỹ-Diệm, hiểu Đảng, tin Đảng và tin vào khả năng đấu tranh của mình; nắm được cơ bản số tù trưởng và những người thuộc tầng lớp trên có uy thế tại địa phương. Về sản xuất, qua kiên trì vận động, ta đã thành công một phần, nhân dân đã tự túc được một phần lương thực. Phong trào vệ sinh, phòng ngừa bệnh tật cũng đạt những kết quả bước đầu. Công tác tập hợp chị em phụ nữ, thiếu niên, nhi đồng và công tác văn nghệ có nhiều tiến bộ. Nhân dân địa phương giác ngộ cách mạng nhanh chóng và đã cùng với đồng bào Leng đi đầu trong những cuộc đấu tranh đòi địch để được tự do đi lại, mua bán, được đổi muối, rựa, tạo tiền đề đóng góp vào phong trào đấu tranh vũ trang sau này.

Bọn địch lên miền núi nói chung và lên Trà My nói riêng thường dùng tranh, ảnh để tuyên truyền nói xấu miền Bắc, nói xấu cách mạng, bôi nhọ Đảng và Bác Hồ. Để vạch mặt âm mưu của địch, ta đã thường xuyên lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống lại các hình thức tuyên truyền này của chúng. Ta đã chuẩn bị cho quần chúng nhiều lý lẽ đơn giản theo cách lập luận của đồng bào.

Tháng 6.1956, địch tổ chức một cuộc mít tinh ở xã Tiên Hương cũng với mục đích tuyên truyền nói xấu cách mạng, nói xấu Đảng và Bác Hồ. Tại cuộc mít tinh này, địch lấy hình ảnh có 7 anh bộ đội bu cành đu đủ không gãy, hình ảnh Bác Hồ gầy so với Ngô Đình Diệm mập mạp, đồng bào miền Bắc ăn cám thay cơm...cho đồng bào xem Được ta chuẩn bị, quần chúng đã dùng lập luận để phản bác sự tuyên truyền của địch. Quần chúng nói cành đu đủ bảy người bu không gãy chắc đất tốt lắm và cây đủ đủ cũng to lắm; giã ang lúa chỉ được ít cám, trong khi đồng bào miền Bắc ăn cám chắc lúa gạo rất nhiều, Bác Hồ lo cho dân nên người bị gầy... Kết quả bọn địch đuối lý trước quần chúng. Qua cuộc đấu tranh này, cho thấy khả năng ta có thể, dùng những lập luận rất đơn giản, giàu hình tượng nhưng vững chắc để đấu lý với địch và dùng chính những luận điệu tuyên truyền của địch đập lại địch

Ngày 6.7.1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào cả nước. Thư của Bác được in trên báo Nhân Dân theo đường hành lang Bắc- Nam vào đến với đồng bào các dân tộc miền núi Quảng Nam. Các đảng bộ miền núi đã tổ chức cho đảng viên và nhân dân học tập rộng rãi thư trên. Thư gửi đồng bào cả nước của Bác đã vạch rõ nguyên nhân vì sao sau hai năm vẫn chưa có tổng tuyển cử thống nhất nước nhà, đồng thời chỉ rõ nhiệm vụ của toàn dân ta là phải “Kiên quyết đấu tranh củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước” (1).

Qua học tập thư Bác, nhiều băn khoăn, lo lắng của cán bộ, đảng viên và quần chúng được giải quyết. Cũng qua học tập thư Bác, đồng bào các dân tộc thiểu số đã thổ lộ tâm tư, tình cảm và những vướng mắc của mình với Đảng, với cán bộ người Kinh. Suốt thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng bào từng bước biết Đảng, hiểu Đảng. Cán bộ người Kinh theo lời Đảng gọi, đã xa gia đình, xa làng xóm lên đồng cam cộng khổ với đồng bào, giúp đồng bào hiểu cách mạng, hiểu Bác Hồ, hướng dẫn đồng bào sản xuất, dạy cho đồng bào cái chữ quý hơn cả đốc, cả ché, thanh la; giúp cho đồng bào những hạt muối nghĩa tình. Nhưng trong Xuân- hè năm 1954, một số cán bộ, đảng viên trong huyện đã làm nhiều điều khiến đồng bào không vừa ý, từ đó trong lòng nảy sinh một số vướng mắc với Đảng, với cán bộ. Cụ thể trong đợt phát động quần chúng hạ uy thế tề điệp, giải tán gum vào đầu năm 1954, ở Nam Bền, Bắc Bền, ta phát động đi đúng hướng, đúng chỗ khiến sau đợt này phong trào quần chúng lên cao. Còn ở Leng, Iếp, Tập, Tu, Poa, Giác, Riềng ta mắc nhiều khuyết điểm. Các xã này trong suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp là vùng tự do, ta làm chủ, địch chưa dựng tề, lập gum, các tầng lớp nhân dân ở đây đoàn kết tưong trợ lẫn nhau, tham gia ủng hộ kháng chiến. Thế nhưng ở đây ta máy móc, cũng xây dựng nòng cốt tố giác tầng lớp trên có bất mãn với ta mà cả những cốt cán của ta cũng trách móc cán bộ(2).

Đảng bộ ghi nhận, tiếp thu tất cả những ý kiến đóng góp, những tâm tư, tình cảm của đồng bào và trên tinh thần tiếp thu phê bình, tìm cách khắc phục các khuyết điểm, sai lầm. Huyện ủy thảo luận và cuối cùng đi đến thống nhất tổ chức thêm đợt học thư Bác, trọng tâm là ở các xã Leng, Iếp, Tập, Tu, Poa, Giác, Riềng và tổ chức cho tất cả cán bộ người Kinh tự phê bình trước nhân dân. Lần này Đảng bộ lấy Thư của Bác Hồ gửi đồng bào nông thôn và cán bộ nhân dân nhân dịp cải cách ruộng đất ở miền Bắc căn bản hoàn thành để làm tài liệu học tập, giải quyết các vướng mắc của đồng bào, đồng thời nhằm nâng cao giác ngộ cách mạng, làm cho quần chúng thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Bác Hồ; vận động đồng bào sản xuất, học chữ, cải tiến phong tục, tập quán và đấu tranh chống Mỹ- Diệm. Về phương pháp học tập, cán bộ đọc và giải thích nội dung tinh thần thư Bác, lấy ôn nghèo, gợi khổ để đồng bào tự đối chiếu cảnh đời trong vòng kìm kẹp, áp bức của phong kiến, thực dân rồi so sánh với những thành quả mà Đảng, Bác đã đem lại cho mình. Cán bộ, qua các mẩu chuyện Mỹ-Diệm đàn áp khủng bố ở Vinh Trinh, Chợ Được, Cây Cốc...chỉ cho đồng bào thấy rõ hơn bản chất hung bạo, dã man của địch. Tất cả các cán bộ, đảng viên người Kinh, từ cấp ủy trở xuống, đồng chí nào phụ trách vùng nào, xã nào đều đứng ra tự phê bình trước đồng bào vùng mình, xã mình phụ trách, nhận hết những khuyết điểm, sai lầm của Đảng bộ đã vấp phải và hứa trước đồng bào là tích cực khắc phục, sửa chữa, cùng ăn, cùng ở, cùng làm, đồng cam cộng khổ với đồng bào để lãnh đạo đấu tranh.

Qua học tập thư Bác và tự phê bình của tất cả cán bộ, đảng viên người Kinh, đồng bào vô cùng cảm động, phấn khởi, thấm thía từng câu, từng chữ trong thư Bác, thấy “Gốc không sai, chỉ có một vài ngọn sai thôi”. Các vướng mắc âm ĩ mãi trong lòng, nay được giải quyết. Đồng bào càng hiểu Đảng, hiểu Bác, thương cán bộ, nuôi cán bộ, thương như con trong nhà. Đồng bào hiểu được rằng cán bộ ở lại chịu đói rét, đau ốm giữa rừng núi mênh mông đại ngàn chính là để cùng đồng bào đấu tranh giành tự do và thống nhất Tổ quốc. Đáng chú ý qua phát động, ở Nam Bền, Bắc Bền và Cang, nhân dân đã phát hiện 27 tên tề phản động còn lẫn tránh và báo cho ta để đưa đi cải tạo, thu giữ 200 khẩu súng.

Việc chống địch mở rộng âm mưu lập chính quyền cũng thu nhiều kết quả. Tháng 7.1956, địch thông báo cho nhân dân các xã Leng, xã Iếp cử người xuống Trà My nhận làm việc cho chúng. Được tin, ta lãnh đạo đưa người đi, mỗi xã 3 người. Bọn chúng tạm thời chỉ định mỗi xã 2 người làm việc gọi là thôn trưởng, thôn phó. Chúng cho mỗi người làm việc 1 tấm chăn sợi, 1 bộ quần áo, 1 ang muối. Sau đó chúng lệnh bọn dân vệ xã Đốc, Pui mang giấy bút, sách vở lên Leng, Iếp và hứa sẽ đưa giáo viên lên dạy chữ cho các em nhỏ, đưa chân dung Ngô Đình Diệm lên phát cho từng làng. Việc dạy chữ chúng không thực hiện được, còn ảnh Diệm thì các em nhỏ dùng than bôi đen và đốt hết.

Tháng 12.1956, địch ở Trà My lên xã Leng và sang xã Iếp để lập ngụy quyền. Mỗi xã chúng lập 1 Ban đại diện 5 người nhưng trên thực tế bộ máy chính quyền này bị vô hiệu hóa.

Tháng 3.1957, địch đưa quân lên đóng đồn ở các xã Leng, Iếp. Tại xã Leng, chúng đóng ở Xân Xuy 1 trung đội và dự định lên đóng ở Mường Roan 1 trung đội. Ta đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh không chấp nhận, cuối cùng bọn chúng phải rút đi. Ở xã Iếp, chúng đóng ở Tak Đoan 1 trung đội, Xuân Rỉa 1 trung đội nhưng đến tháng 8.1959 cũng rút đi. Năm 1958, địch hành quân lên lập tề ở các xã Mai, Rây, Don, Tập và đóng đồn ở đây theo mùa, mùa nắng lên, mùa mưa rút về và cũng chủ yếu đóng vào mùa khô năm 1958. Ở xã Tập, chúng chỉ đóng ở Tu Lung là chính, đến tháng 2.1959 đóng ở Long Túc.

Năm 1957, Đảng bộ còn tập trung vào nhiệm vụ chỉ đạo chống nạn dịch tả và đói. Đầu tháng 3. 1957, dịch tả xảy ra trên diện rộng, nhất là vùng trung và vùng cao. Ban đầu, mỗi xã chỉ có 3-5 người bị mắc bệnh nhưng sau đó lan ra rất nhanh, đến tháng 4, tháng 5 số người mắc bệnh, nhất là bệnh nặng tăng lên nhiều ở các xã Riềng, Zút, Poa, Tu, Leng, Iếp, Cang và đã có hàng trăm người chết. Nạn dịch xảy ra lại đúng vào thời điểm mùa vụ sản xuất, nếu không kịp thời ngăn chặn dập tắt thì nạn dịch có thể cướp đi hàng ngàn sinh mạng và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống của nhân dân. Nạn dịch xảy ra trong khi ta gặp nhiều khó khăn trong việc cứu chữa nhân dân, một mặt không có nguồn thuốc dự trữ cần thiết, không có cơ sở điều trị, không có nhân viên y tế, mặt khác địch lại bao vây phong tỏa gắt gao, việc vệ sinh phòng dịch của nhân dân còn kém. Kết quả, được sự chỉ đạo kịp thời của Huyện ủy, ta đã kịp thời ngăn chặn được dịch, cứu chữa cho những người bị bệnh, hạn chế đến mức thấp nhất số người tử vong, ngăn chặn việc lây lan, bảo đảm sản xuất và ổn định đời sống

Pui và Đốc là hai xã địch có bộ máy tề tương đối mạnh. Ta không móc nối được cơ sở. Địch kèm nhân dân rất chặt hòng tách dân ra khỏi cách mạng. Sống trong vòng vây của địch, nhân dân Pui, Đốc gặp nhiều khó khăn trong sản xuất nên thường xuyên thiếu ăn. Đặc biệt năm 1957, nhân dân Pui, Đốc bị đói nặng. Đứng trước tình hình đó, Huyện ủy Trà My kịp thời mở cuộc vận động cứu đói cho nhân dân Pui, Đốc, đồng thời qua đó xây dựng lại cơ sở cách mạng ở hai xã này. Đây cũng là dịp giáo dục cho nhân dân toàn huyện về chính sách đoàn kết dân tộc của Đảng. Nhân dân cả huyện hưởng ứng cuộc vận động này. Hàng trăm cõng sắn, cõng bắp tình nghĩa được cõng đến Pui, Đốc. Địch ra sức ngăn cản nhưng quần chúng dùng lực lượng đông đảo của mình áp đảo và đấu tranh lý lẽ với chúng, buộc chúng phải nhượng bộ. Đáng lưu ý, với tình nghĩa láng giềng, “Tương thân, tương ái”, nhân dân hai xã Phước Gia, Phước Trà của huyện Phước Sơn, nhất là các làng ông Xum, ông Đấu, ông Tía đã bớt phần lương thực của mình, đóng góp hàng chục gùi sắn, bắp giúp hai xã bạn cứu đói. Việc làm tình nghĩa đó càng củng cố mối quan hệ đoàn kết giữa nhân dân hai vùng. Cuộc vận động cứu đói cho nhân dân Pui, Đốc thành công. Nạn đói ở hai xã tạm thời lắng xuống. Nhân dân toàn huyện vui mừng và càng thấm thía hơn nữa chính sách đoàn kết dân tộc của Đảng. Qua cuộc vận động này, ta xây dựng lại được cơ sở cách mạng và phong trào cách mạng ở Pui và Đốc.

Nhằm chống lại âm mưu của địch trong việc cản trở giao lưu kinh tế giữa miền núi với đồng bằng, trong đó chủ yếu là gây nạn lạt muối và thiếu công cụ lao động ở vùng ta, đồng thời để tập dượt quần chúng đấu tranh công khai, tháng 7.1957, Huyện ủy Trà My họp các cơ sở nòng cốt trong huyện, trong đó có cơ sở đang làm việc cho địch, vạch chương trình tổ chức cho nhân dân các xã đấu tranh trực diện với địch dưới hình thức đồng bào cõng quế xuống quận lỵ Trà My đòi đổi muối, rựa... Chủ trương này nhanh chóng được đồng bào các xã sôi nổi hưởng ứng. Ngay trong đợt đầu tiên, ta đã huy động hơn 400 người. Bấy giờ, ngụy quyền Trà My ra sức ngăn chặn không cho đồng bào đến chợ và bắt đi 11 người dân xã Leng trong tốp đi đầu tiên. Song cuối cùng, trước lực lượng nhân dân đông đảo, địch buộc phải thả số người bị bắt và để nhân dân tự do xuống chợ trao đổi hàng hóa. Chúng chỉ còn giữ lại anh Xa là người đấu tranh hăng hái và bị chúng nghi là nòng cốt. Kết quả sau cuộc đấu tranh, nhân dân từng lớp, từng đợt kéo xuống Trà My và được hướng dẫn của cơ sở, đã đổi được rất nhiều muối, rựa..

Song qua đợt đấu tranh này anh Xa vẫn còn bị địch giam giữ. Địch hy vọng bằng tra tấn, giam cầm, người thanh niên kiên cường của xã Leng sẽ phải khai báo về các đồng chí lãnh đạo và các cơ sở cách mạng trong huyện. Bị giam hơn một tháng, lợi dụng lúc địch sơ hở, anh dùng mũi giáo giấu được lúc bị bắt, đâm chết tên lính gác và thoát chạy. Anh chạy về hướng sông Trường nhưng gặp phải địch và bị bắn chết. Được tin anh Xa bị địch sát hại, nhân dân cả huyện phẫn nộ. Huyện ủy Trà My nhanh chóng tổ chức lãnh đạo nhân dân xã Leng biểu tình, kéo xuống quận lỵ phản đối, lên án địch và buộc chúng phải bồi thường mạng anh Xa. Trước khí thế của quần chúng, bọn ngụy quân, ngụy quyền quận Trà My đành phải chấp nhận các yêu sách của quần chúng, bồi thường 20 cây vải, 30 cái rựa và nhiều hàng hóa khác. Kết quả cuộc đấu tranh này càng làm cho quần chúng thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng bộ, tin tưởng vào khả năng đấu tranh của mình, chống kẻ thù tàn bạo, nguy hiểm trong giai đoạn mới.

Cũng trong năm 1957, Huyện ủy Trà My còn lãnh đạo cuộc đấu tranh chống địch bắt vô cớ dân thường. Anh Bhan, người làng Tak Ray( nay thuộc xã Trà Leng) khi đi xuống xã Đốc mua trâu, đã bị bọn dân vệ địa phương bắt và chuyên về quận Trà My. Tại Trà My, anh bị giam hơn một tháng nhưng vẫn chưa được thả ra. Nhân việc này, Huyện ủy tổ chức cho đồng bào xã Leng, xã Iếp từng đoàn kéo xuống Trà My đòi địch phải thả anh Bhan và phải để cho nhân dân tự do đi lại trong địa phương, không được vô cớ bắt giam. Ta cử ông Rê, một cơ sở nòng cốt của ta để tiếp xúc với địch nhằm đưa yêu sách đòi địch trả lại tự do cho anh Bhan. Kết quả cuộc đấu tranh thu được thắng lợi. Tên quận trưởng phải đứng ra xin lỗi đoàn người đi đấu tranh và chịu bồi thường về việc bắt giam anh Bhan gồm 100 ang muối, 4 m vải, 5 cái rựa, 40 ang gạo. Địch còn phải cho đồng bào mua mỗi người một ang muối, từ 3-4 m vải và một tấm nilon đi mưa. Tổng cộng đồng bào đã mua được 800 ang muối, 400 cây rựa..

Mặc dù ta đã có nhiều biện pháp nhằm tránh cho đồng bào có những manh động nhưng trước những hành động gian ác của bọn địch, đồng bào vẫn kiên quyết trừng trị những tên ngoan cố. Năm 1957, đồng bào xã Nú đã diệt tên Đụng, người Kinh làm gián điệp cho địch trong lúc y đang vây bắt 2 cán bộ của ta, nhờ đó đã giải thóat 2 cán bộ này. Tiếp theo nhân dân thôn Măng Lùng cũng diệt một tên Phun rô xâm nhập vùng Bắc Bền để xây dựng cơ sở... Những hành động trên đây tuy còn mang tính tự phát nhưng qua đó thể hiện sự căm thù địch sâu sắc cũng như tình thương yêu cán bộ cách mạng của đồng bào.

Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy Quảng Nam và Ban Cán sự miền Tây của tỉnh về công tác phát triển đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng ở miền núi, nhất là trong đồng bào các dân tộc thiểu số, tháng 7.1957, Huyện ủy Trà My đã triệu tập hội nghị tại Gòi Oai, xã Trà Giác bàn kế hoạch triển khai. Hội nghị đã kiểm điểm lại công tác phát triển Đảng trước đây, chỉ ra những mặt thuận lợi và khó khăn trong đợt phát triển đảng viên lần này. Về thuận lợi, quần chúng có tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất, tuyệt đối tin tưởng vào Đảng, Bác Hồ, tin tưởng cách mạng; nguồn đối tượng phát triển có nhiều; lực lượng làm công tác phát triển đảng viên ít nhiều đã có kinh nghiệm. Về khó khăn, quần chúng kể cả đảng viên hiểu biết về Đảng, về giai cấp còn rất hạn chế; nội dung, phương pháp tuyên truyền giáo dục cho đối tượng còn nhiều khó khăn; lực lượng làm công tác phát triển Đảng ở vùng trung, vùng cao còn ít; việc theo dõi, kèm cặp, giúp đỡ đảng viên mới không theo kịp yêu cầu phát triển và nâng cao chất lượng đảng viên. Từ sự phân tích những thuận lợi và khó khăn trên, Hội nghị chủ trương dựa vào chi bộ ghép của cán bộ người Kinh ở mỗi vùng mà phát triển Đảng. Xã nào có 3 đảng viên trở lên thì lập chi bộ riêng, còn lại thì cho đảng viên sinh hoạt ghép với chi bộ người Kinh. Hội nghị này cũng đã bổ sung vào Huyện ủy 2 đồng chí.

Nhìn chung sau hội nghị, công tác phát triển Đảng ở Trà My có bước chuyển đáng kể, nhiều xã đã có đủ đảng viên để thành lập chi bộ riêng. Tuy nhiên, trong công tác này cũng còn những thiếu sót: có nơi, có lúc còn có tư tưởng rụt rè, không mạnh dạn, chưa thật sự quan tâm đến công tác phát triển Đảng trong thành phần thanh niên và phụ nữ nên số lượng đảng viên trong hai thành phần này còn ít; công tác củng cố, giáo dục, học tập, rèn luyện cho đảng viên mới sau khi kết nạp còn nhiều lúng túng.

Sang năm 1958, địch đã củng cố một bước đơn vị hành chính Trà My. Ngày 26.4.1958, chúng đổi huyện Trà My thành quận Trà My, gồm các xã Phương Đông, Tiên Trà, Dương Yên, Bùi, Đốc, Tu, Giát Vian, Tak Xoang, Triền Roong, Jep, Trà Bui, Bâu; quận lỵ đặt tại xã Tiên Trà. Đến ngày 2.3.1959, chúng đổi tên quận Trà My thành quận Hậu Đức

Sau khi cơ bản thực hiện xong âm mưu “bình định” ở vùng đồng bằng và đô thị, địch tiến hành chiến dịch “Thượng du vận” nhằm tiến lên miền núi. Để chủ động đối phó với địch, ngay từ năm 1958, tại Hội nghị ở Gò Oai, Huyện uỷ đã nhận định: Địch sẽ tấn công lên vùng trung, vùng cao để thực hiện “Tố cộng”, qua đó lập ngụy quyền. Lực lượng của chúng huy động cho chiến dịch sẽ đông những chúng sẽ gặp khó khăn trong khâu hậu cần. Hội nghị chủ trương, để chuẩn bị đối phó với âm mưu mới của địch, điều quan trọng là phải làm cho Đảng bộ và nhân dân toàn huyện thông suốt, ổn định tư tưởng, làm cho quần chúng thấy rõ cần giữ thế hợp pháp, tránh manh động và không để xảy ra tình trạng dân chạy bất hợp pháp. Ta tổ chức quần chúng đấu tranh giằng co, cản trở địch tổ chức ngụy quyền; chống bắt lính, chống cướp bóc, chống “Tố cộng”, bảo vệ cho được cán bộ. Hội nghị phân công các đồng chí trong cấp ủy cũng như cán bộ, đảng viên phụ trách các vùng đi sâu, đi sát vùng mình phụ trách, nắm chắc tinh thần cơ bản của hội nghị để vận dụng và tùy diễn biến tình hình từng nơi, từng lúc mà lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Hội nghị còn trao đổi việc tổ chức đường dây liên lạc thông suốt trong mọi tình huống, đồng thời quyết định chuyển cơ quan Huyện ủy từ nóc Ông Giáp lên Tak Lũ để đảm bảo chỉ đạo kịp thời các xã vùng cao khi địch tiến lên đánh vùng này và để Nam Bền, Poa, Riềng liên lạc gần hơn. Vùng thấp vẫn tiếp tục giao cho Ban Cán sự cánh nam Tiên Phước phụ trách.

Tháng 2.1959, địch hành quân lên vùng trung, vùng cao bằng nhiều cánh. Một cánh lên Trà Vân, Trà Giác, Riềng, Ngheo, Poa, chia quân đóng ở Gòi Xer, Xa Xit, Nang, Mân Xim.. Một cánh quân lên Nước Vin, Rây, Nam Bền, Bắc Bền đóng ở Gòi Oai, Tak Pít, Tak Lũ, Kon Rót, Lon Lái, Mân Ri, Mân Tra, Lũng Lô, Tak Tố, Long Túc. Một cánh quân lên Nước Vin, Nước Xa, Leng, Iếp đóng ở Xar Xung, Lục Lục, Xuân Rỉa, Trang, Tôông Pôông, Tak Doan, Tu Lung, Lon Túc ( Tập). Mỗi chốt chúng đóng một tiểu đội.

Đúng như ta dự đoán, vừa mới lên, chúng đã truy tróc cán bộ cơ sở của ta và cưỡng ép quần chúng lập ngụy quyền. Chúng bắt một số thanh niên đưa đi học biệt kích, tình báo ở Hòa Cầm. Tuy nhiên ngay từ đầu chúng đã gặp nhiều khó khăn. Thời gian đầu, địch phải tiếp tế hậu cần từ xa. Hết gạo, hết thức ăn thì chúng bắt lính về hậu cứ cõng lên, bắt đồng bào đi gùi hàng cho chúng. Về sau, thấy việc đi lại qua khó khăn, chúng thực hiện hậu cần tại chỗ. Chúng dùng các hàng xa xí phẩm như vòng bạc, vòng đồng, hạt cườm, gương, lược...để đổi gạo, heo, gà, rau quả. Trong khi đó, ta lợi dụng từng sơ hở, từng điểm yếu của địch và phát huy từng thế mạnh, dù rất nhỏ của quần chúng để đấu tranh chống địch. Giữa núi rừng trùng điệp, giữa một nhân dân giàu tinh thần đấu tranh cách mạng, có đời sống và phong tục, tập quán khác, bọn địch rơi vào thế bị động, lạc lõng, hoang mang. Ngay cả địa điểm đóng quân của địch, quần chúng cũng chủ động đấu tranh, dùng phong tục, tập quán để buộc địch đóng ở vị trí có lợi cho ta. Quần chúng kiên trì đấu tranh chống lại âm mưu tổ chức ngụy quyền của địch. Khi địch gọi đi họp để thành lập Hội đồng Hương chính thì ở nhà hoặc người này đi thì người khác ở nhà, hoặc đi không đúng thành phần. Cứ thế không bao giờ cho địch tập trung được qúa nửa số người như chúng quy định. Riêng ba xã Nam Bền, Bắc Bền và Cang, suốt chiến dịch “Thượng du vận”, địch không tổ chức được ngụy quyền dù trên hình thức (1). Nắm được khó khăn của địch về hậu cần, ta tổ chức bao vây bằng cách hoặc không chịu đổi hàng, cất giấu lương thực, hoặc đưa ra các điều kiện như đòi đổi muối, rựa chứ không lấy các hàng xa xí phẩm. Ta đồng thời tổ chức vận động lính địch, cho cơ sở bám sát địch để phân loại số tốt, số xấu và qua đó có đối sách với từng loại. Mặc dù tiếng phổ thông còn hạn chế nhưng bằng những hành động cụ thể, các cơ sở và quần chúng đã cô lập số xấu, làm cho số lưng chừng, cầu an thấy rằng việc dọa nạt, cưỡng ép, phá hoại cuộc sống thanh bình của đồng bào là xấu xa, phạm tội ác. Để uy hiếp tinh thần địch, ngăn chặn sự lùng lội của địch, bảo vệ cơ quan, bảo vệ cán bộ, đảng viên, đồng bào các xã sử dụng có hiệu quả việc đưa các phong tục, tập quán vào đấu tranh. Đồng bào cắm chông, đặt thò khắp các ngã đường, nương rẫy, núi rừng với danh nghĩa chống thú dữ bảo vệ hoa màu song thực chất là cản trở sự lùng lội của địch. Địch xâm phạm tài sản, dù chỉ con gà, trái bí hay vi phạm phong tục, tập quán đều bị đồng bào xô phạt, bắt đền cả trâu, lợn để làm lễ cúng thần linh. Đồng bào dùng hình thức “cấm cử” để không cho địch vào làng, vào nhà hoặc phao tin “Giặc mùa” để hù dọa. Ở địa bàn xã Riêng, địch không thể đứng chân được. Chi bộ đảng Cần lao của địch có 3 đảng viên nhưng không hoạt động được vì bị cô lập ngay từ đầu.

Trong đấu tranh, giữa quần chúng với địch ở một đôi nơi có sự căng thẳng. Như ở Mân Tra, bọn lính vào làng bắt thanh niên và đòi tổ chức ngụy quyền, đồng bào chống lại quyết liệt. Bọn lính hù dọa sẽ đốt làng, bắn giết. Nhân dân làng Mân Tra chạy bất hợp pháp rồi tiếp theo là nhân dân làng Lê, Tak Chanh, Lon Lét cũng chạy ra rừng. Tuy nhiên do đi sát cơ sở, nắm tình hình, Huyện ủy đã kịp thời vận động nhân dân các làng trên về lại làng. Vì vậy suốt chiến dịch “Thượng du vận” của địch, ta vẫn giữ được thế hợp pháp. Hiện tượng manh động không xảy ra. Giữa lúc địch hằng ngày, hằng đêm tổ chức truy lùng cán bộ, cơ sở, ta vẫn tổ chức được hội nghị đoàn kết dân tộc ở các xã, động viên các tầng lớp nhân dân đoàn kết đấu tranh, đoàn kết tương trợ sản xuất...Tháng 7.1959, sau năm tháng thực hiện “bình định” không đạt kết quả, mùa mưa lại đến sắp đến, địch buộc phải rút khỏi vùng trung, vùng cao Trà My.

Địch rút, Huyện ủy Trà My họp nhận định: Chiến dịch “Thượng du vận” của địch bị thất bại thảm hại. Qua đấu tranh, ta đạt nhiều thành quả, trong đó lớn nhất là phá được âm mưu tổ chức ngụy quyền của địch, giữ thế hợp pháp, làm cho dân tin tưởng hơn nữa vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Tuy nhiên ta cũng còn một số hạn chế, thiếu sót như đặt chưa đúng mức công tác địch vận và chưa có chủ trương vận động xây dựng cơ sở trong hàng ngũ binh lính địch.

Cũng năm 1959, ngụy quyền siết chặt bao vây kinh tế đối với vùng ta kiểm soát. Chúng ra lệnh cho thương lái người Kinh và thương nhân ở quận lỵ không được đổi quế của đồng bào các dân tộc thiểu số bằng muối, rựa; chỉ được dùng rượu và các loại hàng hóa khác. Chính sách bao vây kinh tế của địch gây cho ta nhiều khó khăn. Do đó tháng 7.1959, sau khi đồng bào làm xong vụ tỉa, Huyện ủy phát động nhân dân toàn huyện tham gia đấu tranh chống lại âm mưu mới của địch. Cuộc đấu tranh lần này vẫn dưới hình thức tập hợp đồng bào cõng quế xuống quận lỵ Trà My đòi địch phải để đồng bào tự do đổi quế lấy muối rựa. Rút kinh nghiệm các cuộc đấu tranh trước, lần này để tập trung cho được một lực lượng đông hơn, ta tổ chức cho đoàn biểu tình các xã cùng kéo xuống quận lỵ trong một ngày, đồng thời thực hiện tốt chủ trương của Huyện ủy: tranh thủ thương lái đúng mức và giữ thái độ bình thường với lính địch. Số người được huy động lên trên 1.000 người (Pui 50 người, Đốc 150 người, Giác 150 người, còn lại là Leng và Iếp). Kết quả cuộc đấu tranh là địch phải nhượng bộ, đồng bào mua được hơn 1 tấn muối và hàng trăm cây rựa. Âm mưu của địch bao vây kinh tế nhằm gây nạn lạt muối và thiếu công cụ lao động ở vùng ta một lần nữa bị thất bại

Để từng bước khôi phục phong trào ở huyện Tiên Phước, năm 1959, đồng chí Đào Đắc Trinh, người phụ trách cánh Nam của tỉnh (Trà My, Tiên Phước, Tam Kỳ) trao đổi với đồng chí Huỳnh Thiện, Bí thư Huyện ủy Trà My tổ chức việc in và đưa truyền đơn cách mạng vào Tiên Phước. Các đồng chí thống nhất chọn xã Zút là nơi tổ chức in và đưa truyền đơn vào Tiên Phước. Chọn xã Zút bởi xã giáp ranh với Tiên Phước. Địa điểm chọn làm cơ sở in là một nơi kín đáo nằm bên bờ con suối Ta Con. Có 3 loại truyền đơn được in: Truyền đơn kêu gọi đồng bào vùng lên đấu tranh chống Mỹ-Diệm, truyền đơn kêu gọi các đảng viên, cơ sở cũ trở lại hoạt động và truyền đơn kêu gọi ngụy quân, ngụy quyền quay về với nhân dân.

Để đưa truyền đơn vào Tiên Phước, ta sử dụng ống lồ ô, bỏ truyền đơn và lấy sáp ong khằng lại, hoặc bỏ vào bao nilong đem thả xuống sông Tiên, tổng cộng 12 cõng. Truyền đơn nằm trong ống lồô, bao nilong trôi theo dòng sông Tiên qua thôn 3, thôn 4 Tam Lãnh, xuống Tiên Hiệp, Tiên Lộc, Tiên Kỳ và quận lỵ Tiên Phước... Nhiều đồng bào, cơ sở và cả một số ngụy quân, ngụy quyền ở các địa phương trên vớt được truyền đơn. Truyền đơn đã được nhiều người chuyền nhau để cùng đọc. Qua việc này, nhân dân và một số cơ sở mà ta chưa bắt nối được, hiểu một phần chủ trương của Đảng, quần chúng phấn khởi và biết Đảng và cách mạng vẫn đang ở sát bên mình. Bọn ngụy quân, ngụy quyền đầu sỏ ở Tam Kỳ, Tiên Phước vô cùng tức tối. Chúng đã cho binh lính lên Zút bắt 45 cán bộ, đảng viên và quần chúng về Hội đồng Hương chính Kỳ Sơn tra khảo. Sau đó, chúng đưa một số người giam ở Hội An, riêng đồng chí Năm Truyền bị đưa đi giam ở Côn Đảo.

Tháng 9 và 10.1959, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy Quảng Nam, Huyện ủy Trà My đã chọn lọc một số con em cán bộ thóat ly và gia đình có công cách mạng đưa đi miền Bắc học tập. Mục đích là tạo nguồn cán bộ cho địa phương trong tương lai.

Có thể nói những năm 1954-1959, phong trào cách mạng của Trà My phải qua nhiều khó khăn, thử thách. Ta từ hoạt động công khai chuyển sang bí mật, trong khi đó địch đến tiếp quản và tìm mọi cách đánh phá phong trào cách mạng. Tuy nhiên, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy và Ban Cán sự miền Tây Quảng Nam, Đảng bộ huyện đã lãnh đạo nhân dân địa phương vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, cơ bản bảo tồn được lực lượng cách mạng, nhiều phong trào cách mạng được duy trì và phát triển. Trà My còn là địa bàn được nhiều địa phương bạn chọn đứng chân và bàn đạp để khôi phục, phát triển cách mạng ở địa phương mình. Những kết quả đó tạo điều kiện cho Đảng bộ và nhân dân Trà My chuyển sang một giai đoạn đấu tranh mới theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng(Khóa II) về chuyển hướng đường lối của cách mạng miền Nam

2. CHUYỂN HƯỚNG HOẠT ĐỘNG; XÂY DỰNG TRÀ MY THÀNH CĂN CỨ ĐỊA VỮNG CHẮC CỦA KHU V VÀ GÓP PHẦN VÀO VIỆC LÀM CHỦ MIỀN NÚI (9.1959-3. 1965)

Tháng 1.1959, Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) được tổ chức. Hội nghị đã đề ra nhiệm vụ cho cách mạng miền Nam và khẳng định: “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân... con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân” (1). Nghị quyết quan trọng này của Đảng đã soi sáng con đường tiến lên của cách mạng miền Nam.

Tháng 8.1959, sau khi tiếp thu dự thảo Nghị quyết Hội nghị lần 15 do Tỉnh ủy tổ chức, Huyện ủy tổ chức Hội nghị mở rộng tại Tak Ót phổ biến chủ trương mới của Trung ương cho tất cả cán bộ, đảng viên cấp huyện, cả người Kinh lẫn người dân tộc thiểu số. Hội nghị này cũng bổ sung 2 đồng chí vào cấp ủy.

Tháng 2.1960, sau Đại hội Đảng bộ tỉnh tại làng Ađhur, huyện Hiên, tại nóc ông Rim, xã Poa, Huyện ủy tổ chức Hội nghị học tập nội dung chính thức của Nghị quyết 15. Lần này thành phần dự học có rộng rãi hơn trước, có cả cán bộ người Kinh lẫn người dân tộc thiểu số ở các xã cùng tham dự. Các đại biểu nghe truyền đạt nội dung nghị quyết và tổ chức thảo luận. Tất cả đều sáng tỏ, phấn khởi và nêu quyết tâm biến đường lối mới của Trung ương thành hành động cách mạng. Cũng tại hội nghị này, Huyện ủy liên hệ kiểm điểm tình hình Đảng bộ và phong trào cách mạng trong thời gian qua và bàn phương hướng hoạt động trong thời gian đến, đưa phong trào cách mạng toàn huyện từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công.

Thắng lợi của cuộc đồng khởi ở tỉnh Bến Tre và ở huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi cũng như cuộc khởi nghĩa của làng Ông Tía, huyện Phước Sơn ( nay thuộc huyện Hiệp Đức) càng kích thích tinh thần của cán bộ, đảng viên và nhân dân huyện Trà My đứng lên đấu tranh chống địch, bảo vệ núi rừng.

Cuối năm 1959, bộ phận tiền trạm của Liên Khu ủy V từ Hiên vào Trà My khảo sát và xây dựng cơ quan, kho tàng. Giữa năm 1960, toàn bộ các cơ quan Khu ủy chuyển vào đóng dọc theo Nước Là (1).

Trước khi cơ quan chuyển đến Trà My, Khu ủy V đã trực tiếp chỉ đạo cho Huyện ủy Trà My tạo điều kiện và phục vụ cho Khu ủy một cách tốt nhất từ việc cung cấp lương thực, thực phẩm, giúp đỡ cho cơ quan dụng cụ sản xuất tự túc, xây dựng nhà cửa. Cũng ngay từ cuối năm 1959, chuẩn bị cho việc đón lực lượng vũ trang từ miền Bắc vào, huyện Trà My đã huy động trong một tháng được 37 tấn lúa và gạo để gởi đến các trạm trên tuyến hành lang Bắc- Nam. Tuy nhiên do lực lượng vũ trang từ miền Bắc chưa vào kịp và khâu bảo quản không tốt nên số lương thực đó bị hư hỏng, do đó huyện đã tổ chức đợt huy động thứ hai, kết quả đạt 40 tấn. Bên cạnh đó Huyện ủy cũng chỉ đạo các địa phương lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh tăng gia sản xuất lúa, sắn, bắp, rau quả, lợn, gà...

Để nâng cao dân trí cho đồng bào các dân tộc thiểu số, cuối năm 1959, Ban Cán sự miền Tây Quảng Nam cử đồng chí Lê Văn Nam ( tức Yêm) vào Trà My giúp địa phương nghiên cứu phiên âm chữ viết cho các dân tộc thiểu số, trước hết là phiên âm chữ Cadong, vì ở cánh nam của tỉnh nói chung, hai huyện Trà My, Phước Sơn nói riêng, đồng bào Cadong có số lượng đông hơn(2). Huyện ủy Trà My chọn vùng Tak Pỏ xây dựng âm chuẩn. Đồng chí Lê Văn Nam nghiên cứu ghi âm chữ Cadong dưới sự hướng dẫn, chỉ đạo của đồng chí Cónh Axớp ( Quách Xân), ủy viên Ban Cán sự miền Tây. Sang năm 1960, công tác phiên âm đạt được kết quả bước đầu. Huyện ủy Trà My liền dựng trường ngay tại Tak Pỏ, tổ chức chiêu sinh, vừa để phổ biến chữ Cadong vừa để qua đó hoàn chỉnh bộ vần chữ này. Sau lớp học này, phong trào học chữ Cadong phát triển mau lẹ. Để thúc đẩy phong trào, đồng thời để dùng chữ viết Cadong vào công tác vận động, tuyên truyền cách mạng trong quần chúng, Ban Cán sự miền Tây và Huyện ủy Trà My cho ra mắt tờ Pru Dương( Vùng Lên) bằng chữ Cadong và chữ phổ thông. Tờ tin Pru Dương phát hành hằng tháng, riêng dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn như kỷ niệm thành lập Đảng, ngày sinh nhật Bác Hồ...đều có số đặc biệt, được quần chúng yêu thích, quý trọng. Bài viết trên Pru Dương rất ngắn gọn, trong sáng, dễ hiểu, nội dung truyền đạt chủ trương của Đảng, của Tỉnh ủy, Ban Cán sự miền Tây, Huyện ủy ... bằng ngôn ngữ quần chúng giàu hình tượng sống động. Pru Dương còn chú ý đến việc đưa tin kịp thời các địa phương, điển hình tiên tiến ở các thôn, xã, qua đó vận động đồng bào hưởng ứng thi đua.

Việc phiên âm thành công chữ Cadong và sự ra đời của tờ tin Pru Dương là một thành công của Ban cán sự miền Tây và Đảng bộ Trà My lúc bấy giờ. Chính sự thành công này góp phần quan trọng vào việc đẩy mạnh phong trào cách mạng ở địa phương.

Biết ơn Đảng và Bác Hồ, tháng 8.1960, Đảng bộ và nhân dân Trà My đã gửi tặng cho Đại hội III của Đảng gồm cây quế, một cặp ngà voi 30 kg với dòng chữ Đảng bộ và nhân dân huyện Trà My. Nhận được quà, Ban Tổ chức Đại hội III của Đảng đã gửi thư cảm ơn và chúc đồng bào các dân tộc Trà My kháng chiến thắng lợi(1).

Nhằm đoàn kết đồng bào các dân tộc thiểu số, theo chủ trương cử Tỉnh ủy và Ban Cán sự miền Tây Quảng Nam, Đại hội dân tộc huyện Trà My đã được tổ chức vào tháng 1.1961. Đại hội họp tại Tak Pỏ, với hơn 550 đại biểu tham dự. Đại hội nghe Huyện ủy báo cáo tình hình chung về phong trào cách mạng trong nước, trong tỉnh và huyện từ sau ngày ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ, nghe phổ biến tinh thần Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng. Đại hội kêu gọi nhân dân các dân tộc thiểu số trong huyện đoàn kết chung quanh Đảng bộ, đóng góp sức người, sức của, tích cực tham gia kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đại hội phát động phong trào nhân dân đấu tranh vũ trang diệt địch, tiến tới giải phóng quê hương, núi rừng, góp phần cùng toàn miền Tây Quảng Nam và Khu V thực hiện chủ trương mới của Đảng, đưa sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân miền Nam tiến lên.

Theo phong tục địa phương, Đại hội tổ chức lễ đâm trâu và ăn thề đoàn kết các dân tộc. Trong thời gian diễn ra Đại hội, các đại biểu cũng đã đến thăm lớp học phiên âm chữ Cadong. Các đại biểu bày tỏ sự vui mừng trước thành công của việc xây dựng bộ vần tiếng Cadong và tặng qùa cho lớp học. Đại hội cử ra Ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam huyện, gồm 25 vị, do ông Đinh An làm Chủ tịch.

Sau Đại hội dân tộc và ra mắt Ủy ban Mặt trận giải phóng dân tộc huyện, các hội, đoàn thể giải phóng của huyện cũng lần lượt ra đời.

Phát hiện ở Nước Là có cơ quan Khu uỷ V, ngày 28. 2.1961, địch huy động 1 tiểu đoàn lính với sự yểm trợ của trực thăng đổ quân dọc 2 bên Nước Là nhằm đánh phá cơ quan, bao vây tiêu diệt lực lượng ta. Ngày đầu chúng cho quân lùng sục nhưng không phát hiện được gì. Đến ngày hôm sau, cả tiểu đoàn hành quân lên làng Mân Tra. Khi địch đổ quân ở Nước Là, tự vệ và nhân dân ra mai phục chờ địch và lúc chúng lọt vào trận địa bố phòng thì toán đi trước bị sập hầm chông, bị cung, nỏ nên có ngay 5 tên chết ngay tại chỗ và 11 tên bị thương. Bị tổn thất nặng, địch phải bỏ dở cuộc hành quân.

Từ cuối năm 1959, Huyện ủy Trà My đã có chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang huyện nhưng đến năm 1960 thì chủ trương này mới được thực hiện. Lực lượng vũ trang huyện Trà My lúc mới thành lập gồm 1 tiểu đội 12 chiến sĩ, đóng tại Tu Lung. Đến giữa năm 1960, tiểu đội đầu tiên đã phát triển thành trung đội. Ban Cán sự cánh Nam huyện Tiên Phước cũng rút một số thanh niên ra thành lập Đội công tác để hoạt động và xây dựng cơ sở.

Đầu tháng 9.1960, Khu ủy V chủ trương mở đợt hoạt động vũ trang trong toàn khu nhằm phá lỏng thế kèm kẹp của địch, phát động quần chúng mở rộng vùng căn cứ, phát triển thế tiến công xuống đồng bằng. Thực hiện chủ trương trên, lực lượng vũ trang Trà My đã tích cực chuẩn bị về mọi mặt. Ngày 11.12.1960, cơ quan quân sự huyện Trà My được thành lập.

Thời gian này, ở miền núi Quảng Nam, ta tấn công nhiều cứ điểm của địch: Ga Lâu (Bến Hiên), Bót Xít (Bến Giằng), chi khu quân sự Hiệp Đức, đồn Trà My, (Đồng Trại, Phương Đông Trà My). Tham gia đánh các đồn ở Trà My gồm lực lượng vũ trang Quân Khu V, lực lượng vũ trang tỉnh Quảng Nam; còn lực lượng vũ trang Trà My có trách nhiệm phối hợp. Theo kế hoạch, ta nổ súng vào buổi tối. Nhưng ngày hôm đó mũi đánh đồn Trà My, do mất cảnh giác, bị địch phát hiện ngay trên đường hành quân. Địch tăng cường bảo vệ đồn nên ta phải rút lui, bỏ dở cuộc tiến công. Mũi tấn công đồn Đồng Trại- lợi dụng đêm tối và lính địch đóng đồn đang say mèn sau một cuộc chè chén, đã đột nhập vào đồn, dùng bộc phá đánh sập đồn, tiêu diệt phần lớn sinh lực địch, thu 22 khẩu súng. Mũi đánh đồn Phương Đông, ngay từ đầu, đã giành thế chủ động, hỗ trợ đồng bào ấp 2 và ấp 5, xã Nú bị địch tập trung về ấp chiến lược Nước Trắng (Phương Đông) năm 1958 nổi dậy phá khu dồn chạy về làng cũ.

Tức tối trước việc ta tấn công vào các đồn Trà My, Phương Đông, Đồng Trại, bọn địch đã hèn hạ gây ra vụ sát hại nhiều dân công xã Nú mà chúng bắt được trước đó và nhân dân xã Kót. Đoàn dân công xã Nú được huy động đi phục vụ các trận đánh vào các đồn Trà My, Phương Đông, Đồng Trại. Đoàn gồm 31 người khi đến Trà Đông thì gặp bọn địch và bị bắt về giam ở Trà My. Đến ngày thứ 9, bọn chúng bắt lên xe và chở xuống gò Cỏ May, sau đó dùng dây trói hai người thành một cặp, riêng một em nhỏ thì để nguyên. Đến tối, chúng thả 8 người phụ nữ và đưa 22 người đàn ông đến đèo bà Đốc rồi sát hại. Hôm sau, nghe tin, nhân dân xã Kót kéo xuống đấu tranh và bị địch sát hại 5 người. Như vậy, trong vụ này địch sát hại 28 người bao gồm 22 dân quân xã Nú, 5 người dân xã Kót và một thai nhi của một người mẹ bị chết khi còn bị giam ở Trà My. Hành động dã man của địch đã gây nên làn sóng căm phẩn mạnh mẽ trong nhân dân. Đồng bào các dân tộc huyện Trà My càng quyết tâm đứng lên đánh giặc, trả thù cho những người bị địch hại.

Sau khi ta đánh các đồn Trà My, Đồng Trại, Phương Đông, đồng chí Huỳnh Thiện, lúc này là tỉnh uỷ viên, được điều về công tác ở Khu. Huyện uỷ Trà My được củng cố lại. Đồng chí Nguyễn Ngọc Tân được cử giữ chức Bí thư Huyện uỷ, đồng thời bổ sung 1 đồng chí uỷ viên Ban Thường vụ Huyện uỷ. Trước đó, cũng bổ sung 1 đồng chí vào Huyện uỷ.

Về ta, đầu năm 1961, thực hiện chủ trương của Khu ủy V, huyện Trà My tách các xã có người Cor sinh sống gồm Riềng, Zút, Kót, Nú để nhập với một số xã của Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi, thành lập khu căn cứ Liên Trà trực thuộc Khu V. Ngay sau đó, huyện Trà My điều chỉnh địa giới và lập thêm một số xã. Xã Rây được chia thành 3 xã Don, Rây và Vân Nãi; tách một số thôn của xã Tu nhập vào xã Giác, các thôn còn lại của xã Tu gọi là xã Mai; tách một số thôn của xã Giác thành lập xã Tong; xã Poa chia thành 2 xã Poa và Ngheo.

Nhằm tăng cường sức người, sức của cho kháng chiến, tăng cường mối đoàn kết của đồng bào các dân tộc thiểu số, thực hiện chủ trương của Đại hội Đảng bộ tỉnh vào đầu năm 1960, tháng 3.1961, hai huyện Trà My và Phước Sơn được hợp nhất thành huyện Trà Sơn, hai huyện Bến Hiên và Bến Giằng hợp nhất thành huyện Thống Nhất. Huyện Trà Sơn được chia thành 6 khu. Trà My thuộc 5 khu. Khu 1: Pui, Đốc và các xã Phước Gia, Phước Trà và Phước Hiệp của Phước Sơn; Khu 2: Leng, Iếp, Tập; Khu 4: Nam Bền, Bắc Bền, Cang; Khu 5: Rây, Don, Mai, Vân Nãi; Khu 6: Giác, Tong, Poa, Ngheo. Tỉnh ủy cũng chỉ định Đảng ủy B.24, tức Huyện ủy Trà Sơn. Đồng chí Phạm Phong (tức Sơn) được Tỉnh ủy điều động làm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Lê Tỉa (Học) làm Phó Bí thư. Mỗi khu có một Ban Cán sự phụ trách về mọi mặt. Các Ban cán sự Đảng khu vực hoạt động dưới sự chỉ đạo chung của Đảng ủy B. 24. Ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam hai huyện cũng được nhập lại, do ông Đinh Đen làm Chủ tịch.

Sau khi sát nhập huyện, ta lập thêm xã Xiêm Rang theo địa giới của địch lập ra; cắt một số thôn của xã Kót và xã Zút thành lập xã Trà Ngươi. Khu Liên Trà tồn tại trong một thời gian ngắn thì được giải thể và các xã trên lại nhập về Trà My.

Từ sau khi các cuộc tấn công của ta vào Ga Lâu, Bót Xít, Đồng Trại, Hiệp Đức cuối năm 1960, trên chiến trường miền núi Quảng Nam, địch lún sâu vào thế bị động, cô lập. Trong khi đó, sau hơn một năm thực hiện Nghị quyết 15 của Trung ương, phong trào cách mạng ở miền Nam nói chung, ở Quảng Nam nói riêng đã có bước phát triển mới. Tháng 1.1961, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã nhận định: Thời kỳ tạm ổn của chế độ Mỹ-Diệm đã chấm dứt và thời kỳ khủng hoảng triền miên đã bắt đầu. Các hình thái du kích cục bộ, khởi nghĩa từng phần đã xuất hiện, mở đầu cho một cao trào cách mạng ở miền Nam. Phong trào cách mạng ở Trà My cũng nằm trong xu thế chung đó. Ở Pui, Đốc, trong khi bọn ngụy tề hoang mang, dao động mạnh thì thế và lực của ta ngày một mạnh lên. Vùng bàn đạp Nước Ca đã được xây dựng vững vàng. Xã Pui và một số làng của xã Đốc xây dựng được lực lượng bán vũ trang và phát triển được cơ sở cách mạng... Thời cơ giải phóng Pui, Đốc từng bước mở ra.

Cuối năm 1961, theo chủ trương của Tỉnh ủy và Ban Chỉ huy quân sự Quảng Nam, một trung đội lực lượng vũ trang của tỉnh về đứng tại Nước Ca. Trong một tháng ở đây, lực lượng vũ trang tỉnh mở lớp bồi dưỡng quân sự cho lực lượng vũ trang địa phương. Tổng số quân ta về tập trung tại Nước Ca lên đến 100 người. Với tinh thần cách mạng đang lên, nhân dân làng Nước Ca góp 1.200 ang lúa, bình quân mỗi gia đình trên 18 ang để nuôi quân. Sau thời gian tập luyện, lực lượng ta tiến công giải phóng Pui, Đốc.

Bị quân ta tấn công, toàn bộ bọn ngụy tề và hai trung đội dân vệ ở Pui, Đốc hốt hoảng chạy trốn về đồn Trà My. Lợi dụng tình hình đó, nhân dân hai xã nổi dậy, giành quyền làm chủ. Cuộc mít tinh chào mừng chiến thắng được tổ chức và chính quyền cách mạng ra mắt nhân dân.

Ngoan cố không chịu thất bại, một tuần sau địch dùng một lực lượng lớn hành quân nhằm chiếm lại Pui, Đốc. Được chuẩn bị trước, lực lượng vũ trang tỉnh và lực lượng bán vũ trang địa phương anh dũng chiến đấu. Mặc dù có hỏa lực mạnh, chúng vẫn không sao vượt qua khỏi bến đò Mậu Long. Chúng dùng pháo bắn vào Pui, Đốc và cho máy bay oanh tạc Nước Ca. Cả làng Nước Ca cháy trụi, một người bị chết và hai người bị thương. Tuy bị địch trả đũa hèn hạ nhưng nhân dân hai xã Pui, Đốc nói chung, nhân dân Nước Ca nói riêng vẫn bảo đảm công tác, động viên phục vụ chiến trường. Pui, Đốc vẫn được giữ vững.

Để gỡ gạc thất bại, quân địch dùng máy bay trực thăng đổ quân xuống Nước Trưu, bên kia sông Tranh nhưng cuối cùng phải rút lui. Cuộc tiến công nổi dậy giải phóng Pui, Đốc và cuộc chiến chống địch phản kích chiếm lại vùng ta mới làm chủ hoàn toàn thắng lợi.

Giải phóng Pui, Đốc đã đẩy địch lùi sát vùng giáp ranh, đồng thời mở rộng hơn nữa địa bàn hoạt động của ta, áp sát cứ điểm chi khu quận lỵ Trà My. Huyện uỷ Trà Sơn đã họp, đánh giá thắng lợi của việc giải phóng Pui, Đốc, nhất là kinh nghiệm về chống địch phản kích, đồng thời bàn việc đẩy mạnh phong trào cách mạng địa phương trong điều kiện địch thực hiện quốc sách “ấp chiến lược” nhằm tách cán bộ ra khỏi dân ở một số nơi vùng thấp Trà My.

Sau chiến thắng Pui, Đốc, điều kiện để ta đánh tiêu diệt chi khu quận lỵ Trà My mở ra. Cứ điểm chi khu quận lỵ Trà My là một tiền đồn của Mỹ-ngụy về phía Tây, nằm sâu trong vùng căn cứ của ta. Cứ điểm này gồm hai khu vực. Khu trung tâm là khu chỉ huy, gồm 4 nhà ngói. Khu bảo vệ vòng ngoài gồm trại lính, hàng rào kẽm gai bao bọc. Bốn góc rào là bốn lô cốt kiên cố, phía ngoài rào là bãi chông mìn. Lực lượng của địch ở đây gồm một đại đội cộng hòa, một đại đội bảo an có trang bị súng cối 81, đại liên và 4 trung đội dân vệ. Trong 4 trung đội dân vệ có một trung đội là cơ sở bên trong của ta.

Về phía ta, lực lượng tham gia đánh chi khu quận lỵ Trà My có tiểu đoàn 90 của Quân khu V, lực lượng vũ trang huyện Trà My và lực lượng vũ trang huyện Tiên Phước.

Ngày 27.2.1962, lợi dụng lúc tên quận trưởng cũ làm lễ bàn giao công việc cho tên quận trưởng mới nhận chức, trong khi đó lực lượng cộng hòa ở chi khu phải chi viện cho các xã, chỉ còn để lại một tiểu đội, quân ta đã tiến công tiêu diệt chi khu quận lỵ Trà My. 4 giờ 30 phút, ta bắt đầu nổ súng. Phối hợp với lực lượng tiến công bên ngoài, trung đội dân vệ cơ sở của ta nổi dậy làm binh biến. Bọn ngụy quân, ngụy quyền Hậu Đức hốt hoảng không kịp đối phó. Chỉ sau 20 phút chiến đấu, ta tiêu diệt gọn 3 lô cốt. Còn lô cốt thứ tư do tiểu đội cộng hòa chốt, dưới sự chỉ huy của tên quận trưởng cũ. Nấp trong lô cốt, tiểu đội này dùng đại liên bắn trả ác liệt. Song trước sức tiến công của ta, đúng vào lúc 8 giờ thì lô cốt thứ tư cũng bị tiêu diệt. Ta làm chủ hoàn toàn chi khu. Kết quả trận đánh, ta diệt 54 tên bắt sống 120 tên, thu 4 xe GMC, nhiều quân trang, quân dụng và làm chủ được chi khu quận lỵ Trà My trong một ngày. Tên quận trưởng cũ bị bắn chết ngay trong trận đánh.

Nhân đà chiến thắng tiêu diệt chi khu quận lỵ Trà My, một đại đội lực lượng vũ trang của tỉnh phối hợp với đại đội 402 của Tiên Phước tiến công giải phóng Phương Đông, Dương Yên, mở ra một mảng hành lang giải phóng liên hoàn Phước Lãnh, Phước Ngọc, Phương Đông, Dương Yên.

Chiến thắng quận lỵ Trà My có ý nghĩa quan trọng trong việc đẩy địch vào thế co cụm, đồng thời mở rộng căn cứ của ta, tạo thế bàn đạp tiến công xuống đồng bằng.

Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, ngày 12.8.1962, Đảng bộ huyện Trà Sơn đã tổ chức Đại hội tại trường bổ túc văn hóa Tak Pỏ, Trà My. Đây là Đại hội đầu tiên của Đảng bộ Trà Sơn sau hơn một năm hợp nhất hai huyện Trà My và Phước Sơn (1). Đại hội diễn ra trong 4 ngày, có 70 đại biểu về dự. Đồng chí Bùi San, ủy viên Ban Thường vụ Khu ủy đến dự và chỉ đạo Đại hội. Đại hội đã đánh gía tình hình địa phương kể từ khi hợp nhất huyện, đồng thời đề ra các nhiệm vụ: Tiếp tục củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, đẩy mạnh phong trào du kích chiến tranh, kiên quyết đánh bại địch ra khỏi địa bàn miền núi, giữ vững căn cứ địa cách mạng; động viên nhân dân, đặc biệt lực lượng thanh niên thoát ly tham gia các tổ chức cách mạng và lực lượng vũ trang; đẩy mạnh sản xuất nhiều lương thực để cải thiện đời sống nhân dân, có đủ ăn và dự trữ, phòng chống đói và đóng góp nuôi quân; duy trì và đẩy mạnh phong trào học chữ trong nhân dân, thực hiện phong trào vệ sinh phòng bệnh, phát triển y tế đến xã thôn; tích cực xây dựng phong trào hợp tác tương trợ lao động.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành chính thức của Đảng bộ gồm 13 đồng chí, trong đó có 3 ủy viên Ban Thường vụ. Đồng chí Nguyễn Khả (tức Hy), được Tỉnh ủy chỉ định làm Bí thư Đảng bộ, đồng chí Đặng Phong (Trần Ngọc Lan) làm Phó Bí thư. Đại hội Đảng bộ huyện Trà Sơn đã đánh dấu bước phát triển mới của phong trào cách mạng hai huyện Trà My và Phước Sơn.

Đại hội Đảng bộ huyện Trà Sơn vừa kết thúc thì địch đổ quân càn quét Trà My (cuộc càn Đỗ Xá). Lực lượng vũ trang của tỉnh và địa phương đã chặn đánh quyết liệt, gây cho địch nhiều thiệt hại.

Để đối phó với phong trào cách mạng của nhân dân miền tây Quảng Nam ngày một lớn mạnh, ngày 20.10.1962, chính quyền Sài Gòn chia tỉnh Quảng Nam thành hai đơn vị là tỉnh Quảng Nam và tỉnh Quảng Tín. Từ Quế Sơn trở ra, chúng gọi là Quảng Nam, từ Thăng Bình trở vào chúng gọi là Quảng Tín; còn ta, cũng điều chỉnh lại địa giới để kịp thời đối phó với âm mưu của địch, các địa phương từ Quế Sơn trở vào gọi là Quảng Nam và từ Duy Xuyên trở ra gọi là Quảng Đà. Từ đây, Trà My thuộc tỉnh Quảng Tín của địch và tỉnh Quảng Nam của ta.

Tháng 3.1963, trước yêu cầu ngày càng cao của công tác chỉ đạo miền núi, Tỉnh ủy Quảng Nam chủ trương giải thể hai huyện Trà Sơn, Thống Nhất, để thành lập các khu. Huyện Trà Sơn chia làm ba khu: Khu 1, Khu 2, Khu 3. Về sau, bỏ tên gọi khu và gọi là huyện. Khu 1 là huyện Phước Sơn; Khu 2 là huyện Bắc Trà My (phần đất phía Bắc sông Tranh của huyện Trà My cũ); Khu 3 là huyện Nam Trà My (phần đất phía Nam sông Tranh của huyện Trà My cũ). Huyện Bắc Trà My gồm 9 xã: Nam Bền, Bắc Bền, Cang, Tập, Iếp, Leng, Xiêm Rang, Đốc, Pui. Huyện Nam Trà My gồm 13 xã: Mai, Ngheo, Poa, Riềng, Giác, Tong, Nú, Kót, Trà Ngươi, Zút, Rây, Don, Vân Nãi. Tỉnh ủy thành lập 3 Đảng ủy lâm thời. Đảng ủy lâm thời Khu 2 (tức Huyện ủy Bắc Trà My) có 11 đồng chí, đồng chí Đặng Phong được chỉ định làm Bí thư, đồng chí Huỳnh Phùng (tức Kiên) làm Phó Bí thư; Đảng ủy khu 3 (tức Huyện ủy Nam Trà My) có 13 đồng chí, trong đó có 3 ủy viên Ban Thường vụ, đồng chí Phạm Xuân Thâm làm Bí thư, đồng chí Phạm Lâm làm Phó Bí thư. Từ đây cho đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhân dân các dân tộc Trà My tham gia mọi phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của hai Huyện ủy trên.

Bên cạnh bộ máy Đảng, hệ thống mặt trận, các hội, đoàn thể của hai huyện sau khi tách huyện Trà Sơn cũng được thành lập. Ủy ban Mặt trận Dân tộc huyện Bắc Trà My do ông Đinh An làm Chủ tịch; Ủy ban Mặt trận Dân tộc huyện Nam Trà My do ông Trụ Lý làm Chủ tịch. Mặt trận và các hội, đoàn thể của các xã được củng cố. Mỗi ủy ban mặt trận xã có từ 7-15 người. Ủy ban mặt trận và các hội, đoàn thể đã làm tốt tập hợp quần chúng, giáo dục hội đoàn viên nâng cao tinh thần cách mạng và tích cực tham gia kháng chiến, đi dân công, động viên tăng gia sản xuất, bố phòng...

Từ ngày 7 đến ngày 13.3.1963, địch huy động một trung đoàn bộ binh, dùng máy bay trực thăng đổ bộ, càn quét vùng giáp ranh trung châu Phương Đông, Xuân Bình, Tứ Mỹ, thọc sâu vào các xã Zút, Kót, Nú và Trà Ngươi. Yểm trợ cho cuộc hành quân của bộ binh, chúng tập trung pháo ở Phước Lâm và hơn 40 máy bay các loại bắn phá vào các làng bản của ta. Quân và dân Nam Trà My đánh địch quyết liệt, làm cho nhiều tên chết và bị thương.

Tháng 5.1963, địch xây dựng con đường ôtô Trà My- Trà Bồng nhằm phục vụ cho âm mưu chia cắt và nống ra lấn chiếm miền núi. Chúng xây dựng một đồn lính ở ấp 4, xã Nú và cử một đại đội có trang bị cối 81 để bảo vệ lực lượng làm đường. Được sự chỉ đạo của Huyện ủy Nam Trà My, trong năm 1963, lực lượng vũ trang huyện cùng du kích xã Giác, đã tập kích địch hai trận, diệt 4 tên, làm bị thương 5 tên khác. Đến tháng 2.1964, trước sự lớn mạnh của phong trào cách mạng Nam Trà My và Bắc Trà My, địch rút lui, bỏ dở kế hoạch xây dựng con đường chiến lược này.

Từ ngày 4 đến ngày 24.5.1963, Mỹ- ngụy huy động hơn 2 trung đoàn bộ binh ngụy mở cuộc hành quân “Lam sơn 7”, “Lam Sơn 8”, thọc sâu vào vùng giải phóng của ta, trọng điểm là vùng sông Tranh. Chúng gây cho nhân dân ta nhiều thiệt hại. Lực lượng vũ trang hai huyện Nam Trà My và Bắc Trà My đã phối hợp với lực lượng vũ trang Quân khu V và của tỉnh đã chặn đứng âm mưu của địch. Quân và dân xã Poa phối hợp bộ đội huyện đánh 5 trận, làm chết và bị thương 267 tên, trong số này có 32 tên chết và bị thương vì chông, thò. Du kích xã Poa bắn rơi một máy bay và bắn bị thương một chiếc khác. Đây là lần đầu tiên trên chiến trường Trà My một máy bay địch bị rắn rơi. Chiến thắng này càng động viên tinh thần cho quân và dân toàn huyện. Du kích xã Ngheo tác chiến độc lập một trận, phối hợp tác chiến cùng bộ đội huyện một trận, loại khỏi vòng chiến đấu 273 tên. Du kích xã Tong đánh địch một trận diệt 15 tên, trong đó có 7 tên chết vì chông, thò. Du kích xã Giác phối hợp với bộ đội huyện diệt 50 tên. Du kích làng Tak Chươm, xã Mai bắn thương 2 máy bay trực thăng. Cũng như cuộc hành quân vào tháng 3, cuộc hành quân lần này của Mỹ-ngụy bị thất bại hoàn toàn.

Càng thua đau địch càng điên cuồng. Từ ngày 27.4 đến ngày 28.5.1964, thực hiện âm mưu nống lấn vùng ta kiểm soát, Mỹ- ngụy ồ ạt mở cuộc hành quân thọc sâu vào miền Tây Quảng Nam với lực lượng gồm 13 tiểu đoàn bộ binh, 80 máy bay các loại. Trong 31 ngày càn quét, chúng gây cho nhân dân ta thiệt hại lớn về mùa màng, tài sản. Riêng ở Nam Trà My, địch phá 50.000 gốc sắn, cướp 700 ang lúa. Cùng với quân và dân các huyện Đông Giang, Nam Giang, Tây Giang và Phước Sơn, quân và dân hai huyện Nam Trà My và Bắc Trà My dã anh dũng đánh địch. Riêng Nam Trà My đã loại khỏi vòng chiến đấu 442 tên địch, bắn rơi 7 máy bay trực thăng và bắn bị thương 6 chiếc khác.

Tiếp đến chúng tổ chức nhiều cuộc càn khác, ngày 17.8.1964, càn lên xã Zút, ngày 27.8.1964, càn lên dọc sông Nước Nứa. Bên cạnh đó, địch thường xuyên sử dụng các toán gián điệp, biệt kích vào vùng ta để nắm tình hình, xây dựng cơ sở, lôi kéo các phần tử bất mãn để đánh phá phong trào cách mạng của địa phương và giết hại cán bộ ta.

Những thắng lợi trên mặt trận quân sự đã tạo điều kiện cho hai huyện Nam Trà My và Bắc Trà My đẩy mạnh các mặt công tác khác. Để từng bước thay đổi bộ mặt kinh tế của miền núi, đồng thời tạo ra những tiềm năng, khả năng mới trong sự nghiệp xây dựng vùng núi thành căn cứ địa vững chắc, làm hậu thuẫn cho phong trào cách mạng ở đồng bằng, tháng 7.1962, Khu ủy V đề ra chủ trương đẩy mạnh phong trào làm ăn tập thể trong đồng bào các dân tộc miền núi dưới hình thức cao hơn là tổ chức “Hợp tác tương trợ lao động” với quy mô từng thôn hoặc liên thôn. Thực hiện chủ trương đó, ở Nam Trà My, đầu năm 1963, phong trào làm ăn tập thể lên khá mạnh, lúc cao điểm có 154 tổ. Tuy nhiên đến cuối năm 1963 số tổ hợp tác chỉ còn 33. Nguyên nhân của sự tụt lùi là do cán bộ chưa nắm vững nguyên tắc: xây dựng phong trào theo ba nguyên tắc: tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi; chưa thấy hết khó khăn, thuận lợi, ý nghĩa chính trị, kinh tế, xã hội của công việc này; sau khi tổ chức xong tổ hợp tác thì không hướng dẫn phương thức hoạt động cho quần chúng và không có biện pháp nuôi dưỡng phong trào, thiếu kế hoạch đào tạo cán bộ quản lý. Đây còn là tình trạng chung ở các địa phương miền núi, do đó đầu năm 1964, Tỉnh ủy Quảng Nam có chỉ thị về việc tích cực tổ chức phong trào hợp tác tương trợ lao động ở các huyện miền núi. Thực hiện chỉ thị này, Huyện ủy Nam Trà My lãnh đạo nhân dân trong huyện tổ chức, xây dựng lại phong trào. Kết quả là đến tháng 9.1964, Nam Trà My đã tổ chức được 183 tổ hợp tác tương trợ lao động dưới 3 hình thức: Bình công chấm công- 8 tổ với 129 lao động; vòng công thường xuyên- 88 lao động; Vòng công từng vụ, từng việc- 13 tổ với 90 lao động. Cũng trong năm 1964, thực hiện chỉ thị của Tỉnh ủy Quảng Nam, phong trào hợp tác tương trợ lao động ở Bắc Trà My cũng được tổ chức xây dựng và phát triển rộng rãi.

Công tác xây dựng chính quyền đã được chú trọng đúng mức. Giải phóng được thôn nào, xã nào, hai huyện Nam Trà My và Bắc Trà My đã chỉ đạo thành lập chính quyền đến đó. Ở các xã và thôn của Nam Trà My và Bắc Trà My đều có ủy ban tự quản. Tuy mới thành lập, kinh nghiệm chưa nhiều nhưng chính quyền các cấp đã làm tốt nhiệm vụ chỉ đạo nhân dân thực hiện được nhiều chủ trương.

Theo sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, tháng 10.1964, Đảng bộ hai huyện Nam Trà My và Bắc Trà My đã tiến hành Đại hội lần thứ III.

Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Nam Trà My tiến hành tại xã Giác. Dự Đại hội có 50 đại biểu đại diện cho gần 300 đảng viên của 13 chi bộ xã và 2 chi bộ cơ quan trong Đảng bộ. Đại hội kiểm điểm tình hình công tác tổ chức xây dựng Đảng, phong trào cách mạng của huyện kể từ ngày Đảng bộ huyện Nam Trà My được thành lập (tháng 3.1963). Đại hội nhận định: Trong thời gian qua, mặc dù Mỹ- ngụy liên tiếp mở các đợt hành quân càn quét với quy mô lớn, tăng cường phi pháo, rải hóa chất độc, gây cho nhân dân nhiều thiệt hại về người và của, nhưng được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Đảng bộ huyện đã tổ chức và lãnh đạo phong trào cách mạng trong toàn hụyện ngày càng phát triển vững vàng. Đảng bộ được kiện toàn về tổ chức. Hoạt động của các cấp ủy xã trở nên thường xuyên, đều đặn hơn. Công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ người dân tộc thiểu số được chú ý cả về số lượng và chất lượng. Phong trào hợp tác tương trợ lao động, phong trào tăng gia sản xuất, tự túc lương thực và chống cứu đói tuy gặp nhiều khó khăn do thiên tai và địch đánh phá- vẫn đạt nhiều thành tựu. Hoạt động của các đoàn thể quần chúng như thanh niên, phụ nữ có mặt tiến bộ. Phong trào du kích chiến tranh phát triển vượt bậc, đã động viên được nhân dân hăng hái tham gia lực lượng vũ trang, tham gia công tác bố phòng. Trên cơ sở phân tích tình hình, Đại hội đề ra phương hướng nhiệm vụ của Đảng bộ và nhân dân địa phương trong thời gian đến là: Tiếp tục củng cố, xây dựng và phát triển Đảng bộ; lãnh đạo tốt phong trào hợp tác tương trợ lao động và chống, cứu đói; tiếp tục xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang; đẩy mạnh phong trào du kích chiến tranh, chống lại âm mưu càn quét lấn chiếm của địch, đưa phong trào cách mạng toàn huyện vững vàng tiến lên.

Đại hội bầu ra Ban Chấp hành mới của Đảng bộ gồm 11 đồng chí, trong đó có 3 ủy viên Ban Thường vụ. Đồng chí Nguyễn Ngọc Quyến được cử làm Bí thư, đồng chí Phạm Lâm làm Phó Bí thư Huyện uỷ.

Đại hội Đảng bộ hụyện Bắc Trà My đã đánh gía tình hình địa phương kể từ khi Đảng bộ được thành lập, đồng thời đề ra phương hướng nhiệm vụ trong thời gian đến nhằm lãnh đạo nhân dân địa phương đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành mới của Đảng bộ gồm 12 đồng chí, trong đó có 3 ủy viên Ban Thường vụ. Đồng chí Phạm Thành Hiệu được cử giữ chức Bí thư Huyện ủy, đồng chí Huỳnh Phùng làm Phó Bí thư

Đại hội Đảng bộ huyện Nam Trà My và huyện Bắc Trà My với phương hướng, nhiệm vụ được đề ra có tác dụng đưa phong trào cách mạng của hai địa phương tiếp tục phát triển.

Giữa lúc Đảng bộ và nhân dân hai huyện đang tích cực tham gia kháng chiến thì ở Quảng Nam nói chung, Trà My nói riêng xảy ra trận lụt lịch sử. Trận lụt này đã gây nhiều thiệt hại cho địa phương, nhất là xói lỡ đất canh tác dọc ven sông, suối, trôi nhiều nhà cửa nhân dân. Ở Nam Trà My, bị trôi 4 nóc, chết trên 100 người, hư trên 2.000.000 gốc sắn, 3.700 ang lúa, nhiều gia đình trôi cả lúa, bắp giống. Với tinh thần tương thân tướng ái và thực hiện chủ trương của cấp trên, nhân dân hai huyện Nam Trà My và Bắc Trà My đã giúp nhau qua cơn hoạn nạn. Nhờ đó tình hình hai huyện nhanh chóng ổn định, nhân dân tích cực tham gia kháng chiến.

Phong trào dạy và học văn hóa trong thời gian này cũng có bước phát triển mới. Ở Nam Trà My, trong 6 tháng cuối năm 1963, đã tổ chức được 21 lớp bình dân học vụ ở các xã Mai, Rây, Giác, Poa, thu hút được 217 học sinh. Sang năm 1964 thì phong trào dạy và học văn hóa mở rộng ra toàn huyện. Rây và Vân Nãi: 1 lớp- 25 học sinh; Mai: 7 lớp - 90 học sinh; Ngheo: 3 lớp - 25 học sinh; Zút: 6 lớp - 60 học sinh; Trà Ngươi: 5 lớp - 60 học sinh; Tong: 1 lớp - 60 học sinh.

Việc tiết kiệm lương thực, thực phẩm đã được nhân dân các địa phương thực hiện nghiêm túc. Sản xuất được mùa, nhưng nhân dân vẫn tiết kiệm gạo, ăn cơm độn sắn, bắp. Sau trận lụt vào tháng 10.1964, ý thức tiết kiệm của nhân dân được nâng cao, đồng bào tiết kiệm lương thực để giúp đỡ đồng bào nơi gặp khó khăn.

Công tác thi đua cũng được hai huyện Nam Trà My và Bắc Trà My đặt ra. Nhiều đợt thi đua được phát động nhằm thúc đẩy thực hiện các phong trào cách mạng. Ở mỗi huyện và từng xã đều có Ban Thi đua. Từ ngày 2 đến ngày 5. 12.1964, huyện Nam Trà My đã tổ chức Đại hội chiến sĩ giỏi giết giặc và giỏi sản xuất nông nghiệp. Mục đích qua đại hội xây dựng và bồi dưỡng hạt nhân nòng cốt trong các phong trào du kích chiến tranh và phong trào hợp tác tương trợ lao động, đồng thời động viên và lãnh đạo toàn dân tham gia đẩy mạnh kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đại hội bình chọn và khen thưởng 38 chiến sĩ thi đua, 84 cá nhân xuất sắc trong phong trào hợp tác tương trợ lao động và sản xuất cứu đói.

Thực hiện nhiều âm mưu, thủ đoạn, địch không những nắm được Trà My mà ngày càng sa vào thế bị bao vây, phải lần lượt rút nhiều đồn bót... Trong tình hình đó, không thể trụ lại ở vùng ta, vào tháng 11.1964 ( sau trận lụt năm Giáp Thìn), bộ máy chính quyền và lực lượng quân sự địch ở Trà My buộc phải xuống đóng ở Phước Lâm, quận Tiên Phước Việc địch rút khỏi hoàn toàn Trà My đã mở ra bước ngoặt của phong trào cách mạng hai huyện Nam Trà My và Bắc Trà My.

Có thể nói từ đầu năm 1959 đến đầu năm 1965, phong trào cách mạng Trà My đã nhanh chóng bắt nhịp với phong trào cách mạng của cả tỉnh, cả miền Nam. Trà My là nơi sớm tiếp thu Nghị quyết 15 của Trung ương, sớm thành lập lực lượng vũ trang và phát động chiến tranh nhân dân và chiến tranh du kích, xây dựng được nhiều phong trào sâu rộng. Những thành tích đó đã góp phần bảo vệ căn cứ cách mạng của Khu V, giữ vững phong trào cách mạng của địa phương, tinh thần cách mạng của quần chúng được nâng lên một bước, vai trò lãnh đạo của Đảng bộ ngày một thể hiện. Đó là những tiền đề quan trọng để Đảng bộ và nhân dân hai huyện Nam Trà My và Bắc Trà My bước vào giai đoạn chiến đấu mới khi quân Mỹ trực tiếp đưa quân vào miền Nam, gây ra cuộc chiến tranh cục bộ chống lại nhân dân ta.

1. BẢO VỆ VỮNG CHẮC CĂN CỨ ĐỊA, GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” VÀ LÀM THẤT BẠI TỪNG BƯỚC CHIẾN LƯỢC “VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH” CỦA ĐẾ QUỐC MỸ(3.1965-3.1971)

Nhằm cứu vãn sự sụp đổ của ngụy quyền Sài Gòn, đế quốc Mỹ đã đưa quân trực tiếp vào miền Nam, chuyển từ “Chiến tranh đặc biệt” sang “Chiến tranh cục bộ” chống lại nhân dân miền Nam, đồng thời tăng cường đánh phá bằng không quân đối với miền Bắc. Ngày 8. 3.1965, quân Mỹ đổ bộ lên Đà Nẵng; ngày 7.5.1965, đổ bộ lên Kỳ Hà- Chu Lai, xây dựng Chu Lai thành một trong những căn cứ không quân lớn nhất miền Nam. Quân Mỹ tiến hành chiến lược quân sự “Tìm diệt” và “Bình định”, với âm mưu giành lại thế chủ động trên chiến trường để chậm nhất đến cuối năm 1967 có thể ổn định cơ bản tình hình miền Nam Việt Nam

Đối với Trà My, khi quân Mỹ vào thì mức độ bắn phá bằng pháo và máy bay của địch tăng lên. Địch tăng cường gián điệp, biệt kích, rải truyền đơn, kêu gọi chiêu hồi, chiêu hàng. Đáng kể là chúng dùng máy bay ném bom trên các đồi cao, dọc hành lang của ta, có nơi như thôn 1, thôn 2, xã Zút bị ném bom 8 lần trong một ngày. Tháng 3.1966, địch dùng máy bay rải chất độc hóa học vào ba xã Kót, Trà Ngươi, Zút của huyện Nam Trà My, gây thiệt hại lớn về hoa màu. Cụ thể: sắn già- 250.000 gốc, sắn Đông xuân- 1.141.000 gốc, khoai lang- 522 cõng; người bị nhiễm độc, bị ngất từ 3-5 ngày là 267, người bị ngất từ 1-2 ngày là 534. Thâm độc hơn, địch còn dùng bom napan thả xuống xã Ngheo làm 13 em học sinh bị bỏng da. Tình hình đó làm cho một bộ phận cán bộ, nhân dân nảy sinh tư tưởng hoang mang, dao động. Thậm chí một số cán bộ, đảng viên hoài nghi, giảm niềm tin vào thắng lợi cuối cùng, gờm sợ địch, ngại hy sinh, gian khổ. Thấy phong trào ở đồng bằng mở ra, một số cán bộ người Kinh muốn xin về đồng bằng công tác. Ngược lại, một số cán bộ lại cho rằng địch không đủ khả năng đánh phá miền núi.

Đứng trước việc quân Mỹ trực tiếp tham chiến ở miền Nam, thực hiện các Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11,12 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ban Thường vụ Khu ủy V chỉ đạo mở đợt sinh hoạt chính trị trong toàn khu nhằm phát động tinh thần yêu nước, chí căm thù địch, quyết đánh và quyết thắng quân viễn chinh Mỹ. Chiến thắng Núi Thành, Vạn Tường...càng củng cố tinh thần quyết đánh Mỹ và thắng Mỹ của cán bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang huyện Nam Trà My và huyện Bắc Trà My.

Tháng 7.1965, Huyện ủy Nam Trà My và Huyện ủy Bắc Trà My tổ chức đợt sinh hoạt chính trị tư tưởng. Đối với cán bộ, đảng viên, tổ chức học tập tài liệu Đường lối chính trị của Đảng trong cuộc chiến tranh yêu nước ở miền Nam; tình hình và nhiệm vụ mới. Qua học tập, cán bộ, đảng viên đều thấy được âm mưu của địch, khả năng của ta và xác định ta sẽ giành được thắng lợi cuối cùng. Trong học tập, cũng liên hệ tình hình địa phương, giải quyết tư tưởng hữu khuynh, ngại khó, ngại khổ. Ngoài nhân dân, tổ chức học Thư Đảng. Số người tham gia học tập đạt cao nhất so với các đợt học tập trước đây. Qua học tập, mọi người thấy được công lao to lớn của Đảng đối với đất nước, với các dân tộc, đồng thời nguyện đoàn kết chung quanh Đảng, nhớ các điều Đảng dạy là phải học, phải nhớ, phải làm, quyết tâm đi theo Đảng bằng các hành động cụ thể... Đây là đợt sinh hoạt chính trị có ý nghĩa chính trị sâu sắc và có gía trị lịch sử lớn nhất từ trước đến nay đối với Đảng bộ và nhân dân địa phương. Quần chúng rất phấn khởi. Mỗi người đều xác định quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ. Phong trào tình nguyện lên đường tòng quân giết giặc được thanh niên hưởng ứng sôi nổi.

Tháng 10.1965, sau đợt học tập Thư Đảng và phát động căm thù Mỹ- ngụy, hơn 300 người dân Tiên Trà, Dương Yên, Phương Đông xuống đường tham gia cuộc đấu tranh trực diện với bọn ngụy quân, ngụy quyền ở Phước Lâm, tố cáo tội ác cướp của, giết người của chúng. Khi đoàn biểu tình vừa đến cổng đồn thì bọn ngụy quyền lưu vong Trà My đã cho lính đàn áp dã man. Lúc đầu chúng dùng roi, gậy, báng súng đánh đập, về sau cho nổ súng vào quần chúng. 5 người hy sinh tại chỗ, 1 người khác bị thương. Tuy gặp tổn thất nhưng qua cuộc đấu tranh này, phong trào cách mạng ở Tiên Trà, Dương Yên, Phương Đông tiến lên một bước mới.

Trong năm 1965, ngoài nhiệm vụ đánh địch càn quét ở địa phương, lực lượng vũ trang huyện Nam Trà My còn mở nhiều đợt hoạt động, vây đánh địch cụm lại ở cứ điểm Phước Lâm. Kết quả đã đánh 4 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 32 tên, trong đó có 25 tên bị thương; phá hủy 1 trung liên, 2 tiểu liên, thu 1 Cácbin, 800 viên đạn, 15 băng đạn trung liên và nhiều quân trang, quân dụng khác.

Nhằm đưa cuộc kháng chiến của quân và dân địa phương giành được nhiều thắng lợi, Đảng bộ huyện Nam Trà My tiến hành Đại hội lần thứ IV (1). Đại hội được tổ chức tại Nước Vin, xã Trà Giác từ ngày 10 đến 12.8. 1966. Về dự Đại hội có 80 đại biểu đại diện cho hơn 350 đảng viên của 15 chi bộ trong Đảng bộ. Đại hội kiểm điểm tình hình công tác xây dựng Đảng, phong trào cách mạng trong huyện, kể từ Đại hội Đảng bộ vào tháng 10.1964, Đại hội nhận định: Trong thời gian qua, Nam Trà My gặp nhiều khó khăn do thiên tai, phi pháo của Mỹ-ngụy cho nên nạn đói, nạn đau, nạn lạt muối đã diễn ra thường xuyên; gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống nhân dân. Tuy vậy phong trào cách mạng ở Nam Trà My vẫn không ngừng tiến lên. Đại hội chỉ ra các mặt tồn tại của Đảng bộ: Công tác chỉ đạo chưa kịp thời, giải quyết nạn lạt muối chưa thật khẩn trương, phong trào hợp tác tương trợ lao động còn nhiều mặt hạn chế... Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Quảng Nam, dựa vào tình hình cụ thể ở địa phương, Đại hội đề ra phương hướng chung cho Đảng bộ: “Tiếp tục động viên chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, phát động mạnh mẽ, rộng khắp cuộc chiến tranh cứu nước, đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai”. Trên cơ sở đó, Đại hội nêu nhiệm vụ cụ thể trước mắt: “ Ra sức sản xuất chống, cứu đói về cơ bản, chăm lo cải thiện đời sống nhân dân, phát động phong trào du kích chiến tranh rộng khắp để chống, đánh địch, bảo vệ tính mạng, tài sản nhân dân, củng cố các chi bộ Đảng vững mạnh, đủ sức lãnh đạo phong trào và đưa các mặt công tác tiến lên”(2).

Đại hội bầu Ban Chấp hành mới của Đảng bộ gồm 13 đồng chí, trong đó có 3 ủy viên Ban Thường vụ. Đồng chí Huỳnh Quang Toản được cử làm Bí thư, đồng chí Phạm Lâm làm Phó Bí thư

Về công tác xây dựng Đảng, ngày 20.11.1966, Tỉnh ủy Quảng Nam đã ban hành chỉ thị Ra sức đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng chi bộ, tổ Đảng và đảng viên “4 tốt”, phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo toàn diện của chi bộ xã, quyết tâm đánh bại đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh cục bộ của chúng ở miền Nam nước ta. Chỉ thị đã nêu ra yêu cầu và tiêu chuẩn của từng đối tượng để trở thành “ 4 tốt”. Nhiệm vụ trung tâm của chi bộ là lãnh đạo xây dựng căn cứ địa cách mạng, chăm lo đời sống quần chúng, vận động nhân dân đóng góp phục vụ tiền tuyến, đánh địch, bảo vệ căn cứ. Chỉ thị cũng yêu cầu các chi bộ cần tổ chức một đợt học tập và phát động sâu rộng trong toàn Đảng.

Có thể nói đây là một cuộc vận động chính trị sâu rộng, làm cho Đảng không ngừng lớn mạnh về tư tưởng và tổ chức để đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới. Chỉ thị quan trọng trên đây đã được Huyện ủy Nam Trà My và Huyện ủy Bắc Trà My tổ chức triển khai thực hiện chu đáo. Hầu hết đảng viên đều đăng ký thực hiện đảng viên “ 4 tốt”. Nhiều đảng viên đăng ký xung phong vào lực lượng bán vũ trang, hăng hái trong công tác bố phòng và sản xuất. Các chi bộ cũng sinh hoạt đều đặn và nội dung tiến bộ hơn trước. Bộ máy chi ủy được củng cố. Đảng bộ Nam Trà My có 321 đảng viên tham gia học tập chi bộ “ 4 tốt”, có 277 đảng viên đăng ký thực hiện, kết quả số đảng viên khá tăng từ 82 lên 144, đưa được 2 chi bộ lên khá. Đảng bộ Bắc Trà My, số đảng viên khá tăng từ 44 lên 75, đưa 2 chi bộ lên loại khá. Cuối năm 1967, Huyện uỷ Bắc Trà My được củng cố về mặt tổ chức. Đồng chí Huỳnh Phùng được bầu làm Bí thư Huyện uỷ thay đồng chí Phạm Thành Hiệu chuyển công tác khác.

Năm 1967, các tổ chức phụ nữ và thanh niên cũng được củng cố một bước. Nam Trà My củng cố 5 hội phụ nữ xã, mở được 1 lớp đào tạo cán bộ đoàn, củng cố được 7 xã đoàn; Bắc Trà My đã củng cố được 4 hội phụ nữ xã, 5 hội thanh niên xã.

Về công tác nuôi quân, trong năm 1967, nhân dân Trà My đã đóng góp vào quỹ nuôi quân một lượng lương thực đáng kể. Nam Trà My góp 11. 316 ang lúa, 368.000 gốc sắn và bán nghĩa vụ 3.900 kg gạo. Bắc Trà My góp 26.500 ang lúa và hàng trăm nghìn gốc sắn, trong đó quý I là 18.321 ang lúa, 122.270 gốc sắn.

Những thắng lợi liên tiếp của ta trên cả nước trong các năm 1966, 1967 đã đẩy địch vào thế bị động. Nhận rõ thời cơ, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp và quyết định chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của toàn miền Nam sang thời kỳ mới- thời kỳ giành thắng lợi quyết định. Thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng, Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân Khu V quyết định tập trung mọi lực lượng, tiến công liên tục, mạnh mẽ trong cả Xuân Hè, chủ yếu là mùa Xuân 1968 nhằm giành những thắng lợi quan trọng.

Theo đó, đầu năm 1968, quân và dân ta đã tiến hành cuộc tiến công chiến lược bằng hai chân ba mũi giáp công, đánh mạnh, thọc sâu vào các hang ổ của Mỹ- ngụy trên khắp các tỉnh, đô thị ở miền Nam, giáng một đòn sấm sét làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ. Cùng với quân và dân miền Nam, Đảng bộ, quân và dân hai huyện Nam Trà My, Bắc Trà My tiến hành động viên nhân, vật, tài lực lớn nhất từ trước đến nay. Cuối tháng 12.1967, Huyện uỷ Nam Trà My và Huyện uỷ Bắc Trà My đã được Khu ủy V trực tiếp phổ biến kế hoạch và giao nhiệm vụ tổng động viên sức người, sức của phục vụ chiến dịch tổng công kích, tổng khởi nghĩa mùa Xuân năm 1968.

Theo kế hoạch, vượt qua muôn ngàn khó khăn, gian khổ, Đảng bộ và nhân dân hai huyện đã dốc sức dốc lòng phục vụ tiền tuyến. Hàng vạn lượt người nối nhau tiếp lương, tải đạn ra chiến trường. Nhà nhà, người người đều đóng góp lương thực nuôi quân, quyết đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Tính chung trong toàn đợt động viên nhân, vật, tài, lực này, Nam Trà My đã góp 22.000 ang lúa, 900.000 gốc sắn, 255 thanh niên xung phong, 67.000 công vận chuyển hàng hóa;- Bắc Trà My đóng góp 27.000 ang lúa, 500.000 gốc sắn và 100.000 ngày công vận chuyển hàng hóa.

Trong khi đó, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Huyện ủy Tiên Phước và các cấp ủy địa phương, đồng bào Phương Đông, Dương Yên và Tiên Trà đồng lọat nổi dậy xuống đường biểu tình, tham gia cuộc đấu tranh chính trị tiến công chi khu quận lỵ Tiên Phước. 5 giờ sáng ngày mồng một Tết Mậu Thân, sau khi lệnh Tổng khởi nghĩa được công bố, đồng bào đã đến trước chi khi quận lỵ Tiên Phước và dùng loa kêu gọi bọn ngụy quân, ngụy quyền bỏ hàng ngũ địch quay về với nhân dân. Bọn chỉ huy chi khu quận lỵ Tiên Phước hoảng sợ cho lính nổ súng vào quần chúng. Một cán bộ phụ nữ xã Phương Đông và một số người khác hy sinh. Kết quả cuộc đấu tranh chính trị là đã động viên tinh thần cách mạng của toàn dân, làm cho nhiều binh lính ngụy bỏ ngũ về vùng giải phóng.

Về phía địch, sau cuộc Tổng tấn công và nổi dậy của ta, chúng co về phòng giữ thành phố, thị xã. Đây là thời cơ thuận lợi cho ta củng cố và mở rộng vùng giải phóng nông thôn, miền núi. Lúc này trên địa bàn miền núi Quảng Nam, quân địch còn chiến giữ cứ điểm Khâm Đức (huyện Phước Sơn). Cứ điểm này là nơi địch đào tạo lực lượng biệt kích để tung vào vùng ta nhằm phát hiện và tiêu diệt lực lượng ta. Ngày 12.5.1968, thực hiện chủ trương của Bộ Tư lệnh Quân khu V, Sư đoàn 2 và lực lượng vũ trang huyện Phước Sơn đã tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm này. Cứ điểm Khâm Đức bị tiêu diệt đã khai thông đường 14, tạo điều kiện vận chuyển hàng hóa bằng cơ giới theo đường Trường Sơn xuống đồng bằng và đưa nhân dân về vùng giải phóng. Chiến thắng này cũng tạo điều kiện cho phong trào cách mạng ở huyện Trà My tiếp tục phát triển.

Năm 1968, chống lại các cuộc hành quân càn quét của Mỹ- ngụy, quân và dân Bắc Trà My đánh 2 trận, diệt 15 tên địch và bắn bị thương 2 chiếc máy bay Đacôta rải hóa chất độc... Riêng quý 3, một trung đội lực lượng vũ trang tập trung của huyện được điều động chiến đấu ở Tiên Phước, Tam Kỳ. Tại Tiên Phước, trung đội này đánh 4 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 25 tên địch, trong đó có 1 tên lính Mỹ và 4 tên ác ôn. Công tác bố phòng đánh địch ở huyện cũng được tăng cường. Năm 1968, nhân dân Bắc Trà My đã cắm trên 2 triệu cây chông, gài 3.000 bẫy thò và đào 4.000 hầm chông.

Công tác an ninh thời gian này được chú trọng đúng mức. Bộ máy an ninh từ huyện xuống xã, thôn luôn được củng cố. Ban an ninh huyện do một đồng chí ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy phụ trách. Đội ngũ an ninh xã, thôn được bồi dưỡng về nghiệp vụ. Nhìn chung tình hình an ninh của hai huyện Nam Trà My và Bắc Trà My được giữ vững. Ý thức cảnh giác đối với những âm mưu phá hoại của địch trong cán bộ, nhân dân được nâng lên. Lực lượng an ninh đã kịp thời ngăn chặn và khám phá nhiều vụ gây rối trật, trộm cắp, nhất là bọn biệt kích xâm nhập vào vùng ta. Hạn chế của công tác an ninh là lực lượng làm công tác an ninh, nhất là ở xã, thôn tuy đông nhưng hoạt động còn yếu, xử lý một số vụ việc chưa kịp thời.

Trong năm 1968 một vấn đề đáng chú ý là đã tiến hành xây dựng chính quyền cách mạng từ huyện xuống xã, thôn, thay cho chính quyền tự quản. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, hai huyện Nam Trà My và Bắc Trà My đã tổ chức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân học tập ý nghĩa và tầm quan trọng của việc thành lập chính quyền cách mạng. Sau khi tổ chức học tập, hai huyện đã tổ chức bầu lại Hội đồng nhân dân giải phóng và uỷ ban giải phóng xã và huyện. Kết quả, ở Bắc Trà My, về cấp xã đã bầu được 154 vị Hội đồng nhân dân, trong đó có 29 nữ; 63 đại biểu Ủy ban giải phóng, trong đó có 5 nữ; về cấp huyện, đã bầu 21 vị Hội đồng nhân dân, trong đó có 5 nữ; 7 đại biểu uỷ ban giải phóng, trong đó có 1 nữ. Chính quyền cách mạng đã phát huy tốt tác dụng. Quần chúng rất phấn khởi.

Sang năm 1969, đế quốc Mỹ bắt đầu thực hiện chiến lược “ Việt Nam hóa chiến tranh”. Cũng như cả miền Tây Quảng Nam, Nam Trà My và Bắc Trà My bị nhiều tổn thất nặng nề do hoạt động biệt kích, phi pháo và nhất là do hóa chất độc của địch gây ra. Riêng Nam Trà My có 15 người bị chết, 8 người bị thương, 1.391 ang lúa giống gieo không mọc, 3777 gốc sắn bị hỏng, 1.200 gốc quế, 1.119 gốc chuối, 6.020 bụi chóc, 57.012 gốc khoai môn bị chết...Những thiệt hại đó đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống và sức tham gia kháng chiến của nhân dân. Tuy nhiên địch càng gây tội ác, nhân dân càng căm phẫn chúng, Huyện ủy Nam Trà My kịp thời phát động toàn dân căm thù địch, lãnh đạo nhân dân toàn huyện quyết thi đua sản xuất với khẩu hiệu “địch phá một, ta làm gấp năm, gấp mười”, xem công tác sản xuất chống đói, tự túc lương thực lúc bấy giờ là một mặt trận lớn đánh địch, là vấn đề cấp bách nóng bỏng. Thực hiện chủ trương của Huyện ủy, nhân dân trong huyện ra sức thi đua sản xuất, địch phá thì sau đó đồng bào làm lại. Du kích, lực lượng vũ trang huyện phát huy hết khả năng chiến đấu, lập lại mặt trận phòng không, thi đua bắn máy bay địch, nhất là không cho các máy bay rải chất độc bay ở tầm thấp nhằm bảo vệ hoa màu của nhân dân. Chính nhờ quyết tâm lớn của Đảng bộ và nhân dân, Nam Trà My đã giữ vững sản xuất, giải quyết được cơ bản vấn đề lương thực, chẳng những đủ cung cấp cho mình mà còn để góp vào quỹ nuôi quân. Chỉ tính đến tháng 4.1969, Nam Trà My đã trồng được 288. 235 gốc sắn và thu hoạch 17.854 ang lúa.

Đầu năm 1969, một tổ biệt kích Mỹ 3 tên đổ bộ xuống Nam Trà My đã bị quân dân địa phương bao vây tóm gọn. Du kích xã Zút bắn rơi 1 máy bay trực thăng, diệt 8 tên Mỹ. Tháng 10 và tháng 11, du kích các xã cùng bộ đội địa phương phục kích, chống càn, đánh 5 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 52 tên địch, bắn rơi 3 máy bay trực thăng và bắn bị thương 3 máy bay trực thăng khác... Để động viên những thành quả của một năm chiến đấu gian khổ và thắng lợi của du kích các xã, nhất là các xã vùng thấp, huyện Nam Trà My, tổ chức Đại hội liên hoan chiến thắng với khẩu hiệu “Quyết tâm tiêu diệt địch để bảo vệ tài sản, tính mạng nhân dân”. Đại hội liên hoan chiến thắng của du kích các xã có tác dụng thúc đẩy phong trào du kích chiến tranh tiến lên, bảo vệ sản xuất, động viên tinh thần nhân dân khắc phục khó khăn, kiên quyết đánh Mỹ và thắng Mỹ.

Giữa lúc đang đối phó với chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ, Đảng bộ và nhân dân hai hụyện Nam Trà My và Bắc Trà My nhận được tin Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc qua đời. Tin Bác mất lan đi nhanh chóng, gây xúc động và niềm thương tiếc vô hạn trong đồng bào, cán bộ, chiến sĩ của hai huyện. Đồng bào ôn lại công lao của Bác đối với đất nước, nhất là sự quan tâm của Người đối với đồng bào các dân tộc thiểu số. Huyện ủy hai huyện đã tổ chức lễ truy điệu Người và tại lễ truy điệu, cán bộ, chiến sĩ và nhân dân hai địa phương nguyện đi theo con đường mà Bác đã vạch ra, quyết tâm cùng nhân dân cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược như lời khẳng định của Bác trước lúc đi xa.

Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, tháng 12.1969, Đảng bộ huyện Nam Trà My tiến hành Đại hội lần thứ V và Đảng bộ huyện Bắc Trà My đã tiến hành Đại hội lần thứ IV.

Đại hội Đảng bộ Nam Trà My tổ chức tại xã Tong. Dự Đại hội có 100 đại biểu đại diện cho hơn 400 đảng viên của 15 chi bộ xã và cơ quan trong Đảng bộ. Đại hội kiểm điểm tình hình phong trào cách mạng ở địa phương từ Đại hội Đảng bộ tháng 8.1966. Trên cơ sở nhận định tình hình, Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ của Đảng bộ trong hai năm 1970, 1971 là: “ Ra sức sản xuất chống, cứu đói. Trước mắt là chấm dứt nạn đói vào cuối tháng 6.1970; kiên quyết dập tắt dịch cúm, không để lan tràn nhiều nơi; phát động phong trào du kích chiến tranh đều khắp, đánh địch bảo vệ căn cứ, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân; củng cố các chi bộ Đảng vững mạnh để lãnh đạo phong trào và đưa các mặt công tác tiến lên” (1)

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành mới của Đảng bộ gồm 19 đồng chí, trong đó 5 đồng chí uỷ viên Ban Thường vụ. Đồng chí Nguyễn Văn Khương được cử làm Bí thư, đồng chí Hồ Văn Na làm Phó Bí thư Huyện uỷ.

Đại hội Đảng bộ huyện Bắc Trà My họp tại Tak Bầu. Đại hội kiểm điểm tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần trước và đề ra phương hướng công tác cho Đảng bộ và nhân dân trong huyện trong thời gian đến.

Đại hội bầu Ban Chấp Đảng bộ nhiệm kỳ mới gồm 13 đồng chí, trong đó có 3 uỷ viên Ban Thường vụ. Đồng chí Phạm Thành Hiệu được cử làm Bí thư, đồng chí Lâm Trọng Hỷ làm Phó Bí thư Huyện uỷ. Được một thời gian, đồng chí Phạm Thành Hiệu được điều đi công tác khác, đồng chí Trần Hùng được Tỉnh ủy điều về làm Bí thư Huyện uỷ

Nhờ đánh giá sát thực tình hình, đề ra nhiệm vụ mang tính cấp bách, nóng bỏng của Đại hội hai Đảng bộ nên phong trào cách mạng của huyện Nam Trà My và huyện Bắc Trà My tiếp tục đạt nhiều kết quả.

Một kết quả đáng chú ý trong thời gian này là ở Nam Trà My đã dập tắt được dịch cúm. Dịch cúm xảy ra nặng nhất ở vùng thấp, đặc biệt là xã Kót, kéo dài từ tháng 12.1969 đến tháng 2.1970. Số người bị cúm cả huyện đến trên 1.000 người, trong đó có 56 người bị chết, riêng xã Kót là 21 người. Huyện chỉ đạo cho ngành dân y tập trung mọi khả năng đồng thời xin thuốc của trên để điều trị cho nhân dân.

Tháng 3. 1970, Khu ủy V chủ trương tách một số huyện miền Tây của các tỉnh Quảng Đà, Quảng Nam, Quảng Ngãi và huyện Đăk Glêi tỉnh Kon Tum để thành lập một khu đặc biệt, mật danh là Khu A. Đây là Khu trung tâm đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Khu ủy V. Khu A được chia thành 4 Khu: Lam Sơn, Nam Trà, Yên Thế, Sơn Trà. Các huyện Nam Trà My, Bắc Trà My, Phước Sơn thuộc Khu Nam Trà; các huyện Đông Giang, Tây Giang, Nam Giang thuộc khu Lam Sơn. Ở mỗi khu, Khu ủy thành lập một Ban Cán sự Đảng để chỉ đạo phong trào. Ban Cán sự Khu Nam Trà lúc đầu do đồng chí Phạm Xuân Thâm làm Bí thư. Việc lập hai khu Lam Sơn và Nam Trà còn để hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Đà tập trung đối phó với địch ở đồng bằng và đô thị

Cũng như miền núi Quảng Nam, sang năm 1970, ở Nam Trà My và Bắc Trà My sự đánh phá của Mỹ -ngụy ngày một tăng, tuy mức độ có khác nhau giữa các vùng cao, trung, thấp Ở Bắc Trà My trong 6 tháng đầu năm 1970, nếu ở vùng cao sự hoạt động của Mỹ- ngụy có giảm thì ngược lại ở vùng trung, chúng cho máy bay Môran C. 47 quần đảo từng khu vực, uy hiếp lực lượng và phát hiện các hành lang, kho tàng của ta, đồng thời nhiều lần cho máy bay phản lực ném bom. Riêng vùng thấp bị càn quét dữ dội nhất...Tháng 1, chúng rải chất độc hóa học ở Xiêm Rang; tháng 2, chúng cho 2 tiểu đoàn với hỏa lực mạnh và có cả xe cày ủi, càn quét Xiêm Rang, Pui, Đốc nhằm phát hiện công sự của ta và đẩy lực lượng ta ra xa. Tháng 4, rải chất độc xuống vùng này. Sự đánh phá của Mỹ- ngụy gây cho nhân dân Bắc Trà My những tổn thất lớn về người và của. Tính chung trong 6 tháng đầu năm 1970, có 7 người bị chết, 14 người bị thương và 10 người bị bắt; 123.000 gốc sắn, 3.000 m khoai lang, 4.780 bụi chuối nước, 166 ang sắn khô, 80 ang lúa giống bị thiệt hại.

Đứng trước tình hình đó, thực hiện chủ trương của Khu ủy V và Ban Cán sự Nam Trà, Đảng bộ huyện Nam Trà My và Đảng bộ huyện Bắc Trà My đã có những chủ trương sát đúng nhằm giữ vững phong trào cách mạng ở địa phương. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 1970, hai Đảng bộ phát động hai đợt chỉnh huấn nhằm giải quyết tư tưởng ngại khó, ngại khổ trong một số cán bộ, quần chúng và động viên tinh thần quyết thắng giặc Mỹ của nhân dân. Trong chỉnh huấn, hai Huyện ủy cũng đã tổ chức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân học tập Nghị quyết của Khu ủy V về xây dựng Khu A. Cũng qua phát động, nhân dân không những thấy được mục tiêu lâu dài của cách mạng mà còn nhận thức rõ nhiệm vụ trước mắt là phải đẩy mạnh tăng gia sản xuất, không để tình trạng đói xảy ra. Mỹ- ngụy dù hung hăng đến mấy, tiếp tục tăng cường đánh phá, tiếp tục rải chất độc hóa học phá hoại hoa màu, làm cho trơ trụi núi rừng thì nhân dân địa phương cũng quyết tâm bám đất, bám rừng, bám làng để chiến đấu và sản xuất. Quần chúng ý thức sâu sắc rằng lúc này việc sản xuất chống đói, cải thiện đời sống cũng là mặt trận đánh Mỹ. Người tỉa lúa, trồng sắn, bảo vệ hoa màu cũng là chiến sĩ. Nhờ thế, mặc dù địch đánh phá, cày đi xát lại, nhưng lúa, bắp, khoai lang, môn, chóc vẫn mọc trên rẫy, trên nà; các mặt công tác khác cũng được duy trì và phát triển. Đối với việc xây dựng căn cứ miền núi, cán bộ, đảng viên và nhân dân đều nhận thức chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ hàng đầu, việc xây dựng căn cứ phải phục vụ cho nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.

Đối với Nam Trà My lúc này tập trung xây dựng hợp tác xã nhằm đưa căn cứ miền núi theo con đường làm ăn tập thể. Huyện đã chọn thôn Tak Pỏ để xây dựng thí điểm. Tak Pỏ là một thôn của xã Mai, nằm bên cạnh Nước Là. Đất ở đây khá màu mỡ, có nơi có khả năng cải tạo thành ruộng bậc thang, thành nà, bãi. Tak Pỏ cũng là nơi vào năm 1957 được chọn xây dựng tổ sản xuất vòng công, đổi công. Từ năm 1967 đến năm 1969, Mỹ- ngụy dùng phi pháo, máy bay rải chất độc và pháo đài bay B.52 đánh bom liên tiếp, gây thiệt hại nặng cho nhân dân. Phong trào sản xuất ở Tak Pỏ giảm xuống nhanh chóng. Nạn đói xảy ra trầm trọng. Trước tình hình đó, thực hiện chủ trương của Ban Cán sự Nam Trà, từ đầu năm 1970, Huyện ủy Nam Trà My tập trung chỉ đạo, khôi phục lại phong trào hợp tác sản xuất ở Tak Pỏ và qua đó xây dựng Tak Pỏ thành điểm định canh, định cư, điểm vỡ ruộng làm nà của huyện. Kết quả qua hai năm vận động, xây dựng (1970-1971), Tak Pỏ đã tiến lên về mọi mặt. Quan hệ sản xuất mới được xác lập, quần chúng đều là thành viên của hợp tác xã, ở trong các đội sản xuất, được ăn chia sản phẩm theo sức lao động đã đóng góp. Ban quản trị hợp tác được thành hình, có theo dõi công, bình công, chấm công...Xã viên trực tiếp tham gia hội nghị xây dựng kế hoạch của hợp tác xã. Về tư tưởng đã nâng cao giác ngộ chính trị cho quần chúng, khắc phục được các tư tưởng bi quan, tạo lại khí thế cách mạng trong nhân dân. Khối đoàn kết dân tộc được tăng cường, quần chúng phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào triển vọng tốt đẹp của con đường làm ăn tập thể. Tháng 4.1970, nạn đói dịu xuống. Tháng 5.1970, nạn đói chấm dứt. Từ tháng 6.1970 trở đi, nhân dân Tak Pỏ chẳng những có lương thực để ăn mà còn có phần để dành và đóng góp cho cách mạng.

Trên cơ sở đó, Huyện ủy Nam Trà My xây dựng Tak Pỏ thành điểm định canh định cư và vỡ ruộng, làm nà của huyện. Riêng công tác vỡ ruộng, huyện chọn 3 nơi làm thí điểm, 1 điểm ở xã Nú, 1 điểm ở xã Riềng, 1 điểm ở xã Don. Mỗi tổ, mỗi nóc thành lập đội thanh niên xung phong đi đầu vỡ ruộng làm nà. Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo Huyện đoàn phát động thanh niên thực hiện

Trong khi đó, ở Bắc Trà My, Huyện ủy tập trung chỉ đạo đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân. Tính từ đầu năm đến tháng 5, nhân dân Bắc Trà My đã gieo 4.126 ang giống lúa, trồng 7.079.590 gốc sắn, 851.45 bụi chuối nước, 9.822 bụi chuối ăn buồng... Kết quả 6 tháng đầu năm 1970 đã thu 2.396,622 tấn lương thực, tăng gần hai lần so với 6 tháng đầu năm 1969. Đời sống nhân dân giảm bớt khó khăn, nạn đói không hoành hành dữ dội và trên diện rộng như những năm 1968, 1969. Vùng cao là nơi có đời sống khá nhất huyện, một vài làng thiếu gạo nhưng nhờ có sắn, có khoai nên không đói. Vùng trung, vào đầu năm 1969 có 200 người đói thì đến tháng 4 đã có bắp ăn, đời sống trở lại bình thường. Vùng thấp là vùng bị hóa chất độc nặng nhất, đầu năm có 257 người đói nhưng đến giữa năm cái đói cũng dịu xuống. Sản xuất phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, tạo nên một không khí phấn khởi chung. Cũng trên cơ sở phát triển sản xuất mà phong trào hợp tác tương trợ của huyện được củng cố, phát triển. Hình thức tổ hợp tác vòng công thường xuyên ngày càng chiếm ưu thế: Cang- 22 tổ; Bắc Bền- 29 tổ; Tập- 13 tổ; Iếp- 11 tổ; Leng- 17 tổ; Pui- 9 tổ; Xiêm Rang- 13 tổ; Đốc- 17 tổ. Hình thức tổ hợp tác làm chung chia hoa lợi đơn giản, và làm chung ăn chung giảm hẳn xuống.

Từ năm 1969, nhất là sang năm 1970, Mỹ- ngụy ngày một tăng cường thực hiện âm mưu biến vùng Phương Đông, Dương Yên, Tiên Trà thành vành đai trắng nhằm chia cắt vùng căn cứ miền núi Trà My với chiến trường trung du, đồng bằng. Chúng sử dụng pháo bắn phá, dùng máy bay rải hóa chất độc và dùng máy bay L.19 trinh sát phát hiện mục tiêu chỉ điểm cho máy bay phản lực ném bom, HU.1A bắn rốc két...Đồng thời chúng còn dùng biệt kích, thám báo thâm nhập, tổ chức liên tiếp các cuộc hành quân lớn nhỏ nhằm xúc tát nhân dân ra khỏi địa phương, tìm kiếm và đánh phá hành lang, kho tàng của ta, lập vùng trắng. Với tinh thần cách mạng và lòng căm thù địch sâu sắc, nhân dân Phương Đông, Dương Yên, Tiên Trà dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy địa phương, đã kiên cường bám trụ, quyết tâm đánh địch, giữ vững quê hương, giữ vững sự nối liền giữa miền núi và trung du, đồng bằng, giữa vùng căn cứ với chiến trường. Một số đồng bào Dương Yên bám trụ tạm lánh vào Suối Nưa (Tiên Trà) sinh sống và tham gia kháng chiến. Ở Tiên Trà vẫn còn 21 gia đình với 50 nhân khẩu bám trụ.

Để tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nhất là cấp huyện và cấp cơ sở, Ban Tổ chức Khu ủy V đã có kế hoạch đẩy mạnh xây dựng chi bộ “4 tốt” và mở cuộc vận động xây dựng “ Huyện ủy 4 tốt”, đào tạo cán bộ người dân tộc miền núi. Đây là một chủ trương nhằm đảm bảo thực hiện tốt Nghị quyết của Khu ủy V về xây dựng Khu A. Nội dung “ Huyện ủy 4 tốt” gồm: Chỉ đạo thực hiện thắng lợi 3 cuộc vận động lớn- nâng cao đời sống nhân dân, chiến đấu thắng lợi, đóng góp phục vụ tiền tuyến ngày một nhiều; vận động nhân dân thực hiện và chấp hành tốt các chính sách; lãnh đạo xây dựng xã, thôn, xây dựng chi bộ, Đảng bộ cơ sở xã thôn, chi đoàn “4 tốt” đạt 70% trở lên, chi bộ cơ quan đơn vị “4 tốt” đạt 80% trở lên; xây dựng Huyện ủy, xây dựng và phát huy đoàn thể, ngành, tăng cường lãnh đạo tư tưởng và tổ chức, ra sức đào tạo đội ngũ cán bộ. Về công tác đào tạo cán bộ người dân tộc thiểu số, kế hoạch yêu cầu các địa phương vận động cán bộ học chính trị, văn hóa, kỹ thuật, củng cố và xây dựng trường đào tạo cán bộ, đào tạo văn hóa; xác định hình thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phù hợp với hoàn cảnh công tác, chiến đấu, sản xuất của từng địa phương; cấp huyện có trách nhiệm đào tạo cán bộ xã ủy, chi ủy, tổ trưởng Đảng, cán bộ ban chấp hành thanh niên, phụ nữ, ban quản trị hợp tác xã, y tá xã, kế toán hợp tác xã.

Cho đến năm 1971, trên địa bàn Trà My quân Mỹ chỉ còn chốt giữ xã Đốc. Đây là một địa bàn rất quan trọng, là tuyến hành lang huyết mạch nối đồng bằng Quảng Nam với Tây Nguyên, nối tuyến đường từ miền Bắc vào các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định. Địa bàn nơi đây rất hiểm trở, có nhiều sông suối. Cứ điểm xã Đốc là một vị trí quan trọng trong hệ thống cứ điểm trực tiếp bảo vệ vòng ngoài Khu liên hợp quân sự Chu Lai, nằm trên một mỏn đồi hình yên ngựa, hai đầu là hai mỏn hơi nhô cao, do tiểu đoàn 1/46 (thiếu) thuộc lữ đoàn American đóng giữ. Sở chỉ huy tiểu đoàn và 2 đại đội ở mỏn A trên hướng tây bắc; 1 đại đội và trận địa pháo ở mỏn B; yên ngựa ở giữa là bãi đậu máy bay lên thẳng. Cũng như mọi cứ điểm khác của quân Mỹ, công sự và chướng ngại vật ở xã Đốc rất kiên cố và phức tạp.

Đêm 27.3.1971, dưới sự chỉ đạo của Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân Khu V, tiểu đoàn đặc công 409 Quân khu V đã tấn công cụm cứ điểm này. Sau 35 phút chiến đấu, ta đã hoàn toàn làm chủ chiến trường, diệt gọn tiểu đoàn 1/46 (thiếu) của sư đoàn American. Riêng du kích xã Đốc đã tham gia đánh quân địch đến chi viện, bắn rơi một máy bay HU1A, 1HU1B, 1 máy bay C130. Nhân dân địa phương còn tham gia khiêng thương, chuyển chiến lợi phẩm. Chiến thắng xã Đốc có tiếng vang lớn và có ý nghĩa trong việc mở rộng khu hậu cứ của ta. Chiến thắng Núi Thành năm 1965 diệt gọn một đại đội Mỹ đầu tiên trên chiến trường miền Nam, thì chiến thắng cứ điểm xã Đốc diệt gọn tiểu đoàn Mỹ cũng là trận diệt Mỹ cuối cùng lớn nhất trên chiến trường Khu V. Cứ điểm xã Đốc- đồn bót cuối cùng của Mỹ- ngụy trên đất Trà My- bị tiêu diệt, đồng bào các dân tộc Trà My vô cùng phấn khởi. Đảng bộ và chính quyền Trà My đã chọn ngày 27.3.1971 làm ngày giải phóng quê hương.

Như vậy trong những năm 1965 đến năm 1972, cùng với nhân dân cả miền Nam, nhân dân hai huyện Nam Trà My và Bắc Trà My phải đối mặt với quân xâm lược Mỹ với hai chiến lược “ Chiến tranh cục bộ” và “ Việt Nam hóa chiến tranh”. Đối mặt trực tiếp với quân Mỹ cũng là đối mặt với bao khó khăn chồng chất, nhất là sự đánh phá của địch tăng lên gấp bội lần, kể cả những loại vũ khí và phương tiện tối tân. Cũng do địch đánh phá, đời sống của cán bộ và nhân dân gặp nhiều khó khăn, các mặt công tác khác cũng bị ảnh hưởng. Thế nhưng dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy Quảng Nam và Ban Cán sự Khu Nam Trà, Đảng bộ và nhân dân hai huyện Nam Trà My và Bắc Trà My đã bình tĩnh, mưu trí, vượt qua mọi khó khăn thử thách, xác định quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ. Hai huyện đã sử dụng thành công phương châm “Hai chân, ba mũi giáp công”, đánh bại mọi cuộc càn quét vào vùng căn cứ, xây dựng thực lực ngày một vững mạnh, đóng góp sức người, sức của ngày một nhiều. Với chiến thắng tiêu diệt cứ điểm xã Đốc đã kết thúc một thời kỳ quân và dân hai huyện phải trực tiếp đối mặt với kẻ thù ngay trên địa bàn địa phương.

Những thành tích của Đảng bộ và nhân dân hai huyện Nam Trà My và Bắc Trà My từ năm 1965 đến năm 1971 không chỉ góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc căn cứ, giữ vững hành lang Bắc-Nam đi qua địa bàn địa phương mà còn tạo thế và lực cho hai huyện bước sang thời kỳ đấu tranh mới khi trên địa bàn huyện nhà không còn cứ điểm của địch- thời kỳ tập trung xây dựng căn cứ và chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến.

2. GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI HOÀN TOÀN CHIẾN LƯỢC “ VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH” CỦA ĐẾ QUỐC MỸ VÀ GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC ( 3.1971-3.1975)

Bị thua đau liên tiếp, từ ngày 5.5 đến ngày 15.6.1971, địch dùng một lực lượng lớn: 10 tiểu đoàn thuộc sư đoàn 2 cùng một số đơn vị biệt kích, thám báo, có máy bay và đại bác yểm trợ, mở cuộc hành quân “Quyết thắng 20b” đánh thọc sâu vào khu trung tâm chỉ đạo của Khu ủy V tại miền Tây hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi.

Dưới sự chỉ đạo của Khu ủy V, quân và dân miền Tây Quảng Nam, Quảng Ngãi đã anh dũng chiến đấu, đánh thắng địch, diệt 1.200 tên, bắn rơi 10 máy bay, phá hủy 7 đại bác và 15 xe quân sự. Riêng quân và dân Nam Trà My, Bắc Trà My đã tích cực tiêu hao sinh lực địch, trong đó Nam Trà My đã loại khỏi vòng chiến 235 tên, bắn rơi 3 máy bay, góp phần đánh bại cuộc càn của địch, giữ vững căn cứ địa.

Hai tháng sau khi cuộc hành quân “Quyết thắng 20b” bị thất bại thảm hại, địch lại mở cuộc hành quân dài ngày khác lên vùng giáp ranh Trà My- Tiên Phước và Trà My- Tam Kỳ nhằm ngăn ngừa sự tấn công của ta, bảo vệ cho cuộc bầu cử tổng thống ngụy tổ chức vào ngày 31.10.1971. Suốt trong tháng 8 và tháng 9, quân và dân Nam Trà My, Bắc Trà My liên tục đánh địch, loại khỏi vòng chiến đấu 71 tên địch.

Công tác xây dựng kinh tế lúc này cũng đạt nhiều kết quả. Quán triệt chủ trương của Khu ủy V về xây dựng Khu A, là phải xem phát triển nông nghiệp là nhiệm vụ trung tâm trong việc xây dựng căn cứ địa, do vậy, mặc dù đang tập trung chỉ đạo công tác chống, đánh địch, Huyện ủy Bắc Trà My vẫn coi trọng lãnh đạo sản xuất, phát động nhân dân vượt qua mọi gian khổ, thử thách, rèn đúc hơn nữa ý chí cách mạng, vừa đánh địch, vừa sản xuất, bảo đảm tự túc lương thực và góp phần nuôi quân, trước mắt là thực hiện thắng lợi vụ Đông Xuân và vụ mùa năm 1971. Kết quả năm 1971, nhân dân Bắc Trà My sản xuất được 2.252,558 tấn lương thực quy bột; góp vào quỹ nuôi quân 8.493 ang lúa, 2.221 kg bắp và 71.960 kg sắn. Ở huyện Nam Trà My, mặc dù năm 1971 gặp nhiều khó khăn nhưng nhân dân trong huyện đã góp quỹ nuôi quân: 702 ang bắp, 44 ang sắn khô và 4.000 gốc sắn tươi. Trong tình hình địch đánh phá ác liệt và liên tiếp rải hóa chất độc làm hoang hóa nhiều nơi thì thắng lợi liên tiếp vụ Xuân và vụ mùa ở Bắc Trà My và việc bảo đảm sản xuất bình thường ở Nam Trà My là một thắng lợi rất có ý nghĩa trong việc thực hiện chủ trương xây dựng khu A trên mặt trận kinh tế của Khu ủy V.

Thắng lợi trong sản xuất nông ngiệp năm 1971 ở hai huyện Nam Trà My và Bắc Trà My phải kể đến những đóng góp của các lò rèn. Để phục vụ tốt cho sản xuất, Huyện ủy Nam Trà My và Huyện ủy Bắc Trà My chỉ đạo các địa phương trong giai đoạn trước mắt là tập trung sản xuất các nông cụ cầm tay cần thiết cho sản xuất nông nghiệp. Ở Bắc Trà My, các lò rèn trong năm 1971 đã sản xuất được 120 cái rựa, 10 cuốc bàn, 3 liềm, 94 niếu vỡ ruộng, 30 noa, 30 dao bàn xắt sắn; sửa chữa 19 cái rựa, 2 cái rìu, 5 cuốc bàn. Ở Nam Trà My, các lò rèn đã sản xuất được 106 rựa, 8 cuốc, 8 búa, 120 noa, 6 dao và 6 cọc tỉa lúa.

Công tác giáo dục thời gian này đạt những thành tích nhất định ở cả ba khối bình dân học vụ, bổ túc văn hóa, và phổ thông. Năm 1971, ở Bắc Trà My, bình dân học vụ có 47 lớp với 434 học viên, bổ túc văn hóa có 19 lớp, phổ thông dân lập có 7 lớp với 98 học viên; ở Nam Trà My, bình dân học vụ có 51 lớp với 422 học viên, bổ túc văn hóa có 19 lớp với 227 học viên, phổ thông dân lập có 19 lớp với 227 học viên. Đội ngũ giáo viên chuyên nghiệp, ở Bắc Trà My có 15 người, ở Nam Trà My có 18 người. Nhìn chung, công tác giáo dục được duy trì và phát triển, chất lượng dạy và học được nâng cao hơn trước, nhiều địa phương chú ý mở thêm nhiều trường, nhiều lớp; các trường cũng bắt đầu dạy môn kỹ thuật nông nghiệp.

Công tác văn hóa cũng được đẩy mạnh. Phong trào xóa bỏ những tập tục lạc hậu mà lực lượng nòng cốt là thanh niên được liên tục phát động và duy trì. Phong trào xây dựng thôn, nóc “Ba sạch”, làm nhà đất kiểu mẫu được nhiều nơi thực hiện. Công tác thông tin được chú ý, nhiều gia đình có Radio để nghe tin tức kịp thời. Xã Don, huyện Nam Trà My còn làm được những bản tin dọc theo các con đường có nhiều người qua lại, ban đêm tổ chức nói chuyện thời sự cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nghe. Hạn chế trong công tác này là chưa chú trọng xây dựng đội tuyên truyền, văn nghệ; sử dụng cán bộ thông tin vào những công việc khác nhiều hơn; bản tin, báo, cờ giải phóng không đủ số lượng để gửi xuống tận thôn, nóc; những tập tục lạc hậu vẫn còn ở nhiều nơi.

Ở Bắc Trà My, vùng thấp là địa bàn địch còn chốt giữ một số điểm và bị đánh phá nặng hơn, do đó để cho phong trào cách mạng vùng này phát triển, Huyện ủy có kế hoạch riêng. Nội dung kế hoạch đề cập đến tất cả các mặt, từ việc củng cố cơ sở Đảng, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể, đến xây dựng lực lượng vũ trang và đánh địch, ổn định sản xuất và đời sống của nhân dân. Để chỉ đạo vùng thấp, Huyện ủy đã thành lập một đội công tác và Ban Chỉ đạo vùng, do một đồng chí ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy phụ trách, đồng thời mỗi xã thành lập một bộ phận phía trước, một bộ phận phía sau để lo các mặt công tác khi địch càn quét. Nhờ sự chỉ đạo kịp thời và sát thực của Huyện ủy Bắc Trà My nên phong trào cách mạng ở vùng thấp của huyện đã có bước phát triển mới.

Thực hiện chủ trương của Ban Cán sự khu Nam Trà, Đảng bộ huyện Nam Trà My đã tiến hành Đại hội lần thứ VI Đại hội lần này được tổ chức tại Tak Lây ( xã Giác) từ ngày 10 đến ngày 12.11.1971. Về dự Đại hội có gần 100 đại biểu đại diện cho 457 đảng viên của 13 chi bộ xã và chi bộ cơ quan trong Đảng bộ. Đại hội kiểm điểm tình hình công tác xây dựng Đảng, phong trào cách mạng địa phương kể từ Đại hội Đảng bộ tháng 12.1969. Đại hội nhận định: Trong thời gian qua, tình hình địa phương gặp nhiều khó khăn, vừa phải liên tục chống, đánh địch càn quét, phá hoại, vừa phải cấp bách giải quyết thắng lợi công tác sản xuất chống cứu đói, tự túc lương thực và đóng góp nuôi quân nhưng nhờ có sự chỉ đạo của cấp trên, Đảng bộ đã đề ra được những chủ trương sát với thực tế địa phương, lãnh đạo nhân dân, đưa phong trào cách mạng trong toàn huyện tiến lên. Phong trào hợp tác tương trợ lao động, phong trào vỡ ruộng làm nà đi vào chiều sâu, tuy mức độ phát triển có chậm nhưng chắc chắn. Tình hình sản xuất nông nghiệp ngày càng có chiều hướng đi lên. Nạn đói kéo dài trước đây đã được giải quyết xong vào tháng 6.1970. Vụ sản xuất Đông xuân và vụ mùa năm 1971 thắng lợi. Công tác xây dựng chi bộ “4 tốt” ngày càng được nâng cao chất lượng. Công tác phát triển đảng viên, đào tạo cán bộ dân tộc được chú ý đúng mức. Về phong trào du kích chiến tranh, Đại hội nhận định đây là công tác nổi bật nhất trong hai năm qua. Bộ đội địa phương, dân quân du kích không ngừng được củng cố, phát triển. Kinh qua thực tế chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh, bộ đội địa phương và du kích các xã đã có bước trưởng thành về mọi mặt, có khả năng đánh thắng địch, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân địa phương.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành mới của Đảng bộ gồm 17 đồng chí, trong đó có 5 ủy viên Ban Thường vụ. Đồng chí Nguyễn Văn Khương được bầu làm Bí thư; đồng chí Hồ Văn Na làm Phó Bí thư Huyện ủy Huyện uỷ. Sau một thời gian, đồng chí Nguyễn Văn Khương được điều sang công tác khác, đồng chí Đỗ Kim Bân được cử làm Bí thư Huyện uỷ. Huyện ủy cũng bổ sung 2 ủy viên dự khuyết.

Ở Bắc Trà My, công tác xây dựng Đảng thời gian này cũng đạt nhiều kết quả. Huyện ủy đã vạch kế hoạch tổ chức học tập, củng cố nhận thức cho cán bộ, đảng viên về cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Huyện ủy “ 4 tốt”, chi bộ, đảng viên “4 tốt” nên đã đưa công tác xây dựng Đảng năm 1971 lên một bước đáng kể Về mặt chính trị, tư tưởng, đã tổ chức học tập Nghị quyết 10 và Nghị quyết xây dựng khu A của Khu ủy V, Nghị quyết về công tác tổ chức của Khu ủy V và Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhờ đó mặc dù địch tăng cường đánh phá bằng phi pháo, càn quét dài ngày, chốt điểm, diện càn rộng hơn, đời sống của cán bộ và đảng viên cũng như quần chúng bị thiếu thốn, nhưng với tinh thần, trách nhiệm cao, tư tưởng quyết tâm, cán bộ, đảng viên địa phương đã vượt qua mọi khó khăn, trụ bám, lãnh đạo quần chúng thực hiện đạt nhiều kết quả trên mọi mặt công tác. Nổi nhất là các xã Đốc, Nam Bền và một số thôn, một số mặt của các xã Tập, Leng. Về tổ chức, năm 1971, ngoài việc bầu lại 5 chi ủy, xã ủy; đã xây dựng được một xã ủy mới ( xã Cang). Thành phần cấu tạo các xã ủy, chi ủy so với chỉ tiêu thì số trẻ và nữ còn quá ít ( trẻ mới đạt 21,5% và nữ 6,3 %), song năng lực lãnh đạo của các chi bộ, chi ủy có tăng lên. Một số chi bộ khá toàn diện hoặc khá một mặt, như chi bộ Nam Bền khá toàn diện, chi bộ xã Tập khá mặt chống càn, đánh địch, vỡ ruộng, giáo dục và động viên con em thóat ly; chi bộ xã Leng khá mặt vỡ ruộng; chi bộ xã Đốc khá mặt trụ bám đánh địch, giữ dân, sản xuất giải quyết đời sống cho dân. Một thực tế cho thấy xã nào tổ chức cơ sở Đảng mạnh, giỏi lãnh đạo, chỉ đạo thì xã đó có phong trào khá, quần chúng tích cực tham gia mọi công tác. Về công tác phát triển đảng viên mới, năm 1971, toàn Đảng bộ đã phát triển được 23 đảng viên, trong đó đa số thuộc thành phần cơ bản và trẻ.

Cuối năm 1971, đầu năm 1972, các xã của hai huyện đã tổ chức bầu lại Hội đồng nhân dân và bầu Ủy ban nhân dân cách mạng. Nhìn chung, hoạt động của chính quyền từ huyện xuống xã, thôn tiến bộ hơn trước.

Công tác Đoàn trong thời gian này cũng được chú trọng. Ngày 1.11.1971, Ban Cán sự Nam Trà đã có Chỉ thị số 01/ CT về việc mở cuộc vận động nâng cao chất lượng đoàn viên và phát triển đoàn viên mới. Cuộc vận động này đi đôi với cuộc vận động “Nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên mới”. Đây là nhiệm vụ trọng tâm của Đoàn trong hai năm 1972-1973 nhằm tăng cường sức chiến đấu của Đoàn, tăng cường sự đoàn kết chặt chẽ giữa đoàn với nhân dân và với quần chúng thanh niên làm cho đoàn vững mạnh về mọi mặt để xứng đáng là đội xung kích trong nhiệm vụ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng như xây dựng căn cứ miền núi. Thực hiện chỉ thị trên, Huyện đoàn Nam Trà My và Huyện đoàn Bắc Trà My đã tiến hành Đại hội, củng cố lại Ban Chấp hành và đề ra phướng hướng nhiệm vụ cho phù hợp với tình hình mới. Các chi đoàn cơ sở cũng được củng cố, duy trì nề nếp sinh hoạt. Đoàn viên, thanh niên luôn đi đầu trong các phong trào như sản xuất, vỡ ruộng, làm nà, phục vụ tiền tuyến, thóat ly. Đáng lưu ý, hầu hết thanh niên xã Trà Ngươi đã thoát ly tham gia cách mạng.

Thực hiện sự chỉ đạo của Ban Cán sự Nam Trà, tháng 2.1972, Đảng bộ huyện Bắc Trà My đã tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ V. Đảng bộ lần này được tổ chức tại Nước Biêu, xã Tập. Sau khi kiểm điểm tình hình công tác Đảng và các mặt công tác khác kể từ Đại hội vào tháng 12.1969, Đại hội nêu các vấn đề cần nắm vững: Xác định tư tưởng tiến công và xây dựng căn cứ địa vững mạnh; về vị trí vai trò, nhiệm vụ, mục tiêu xây dựng căn cứ địa miền núi; về xây dựng điểm và tăng cường sự đoàn kết nhất trí phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đại hội đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ chung cho toàn Đảng bộ là: “ Thường xuyên nâng cao giác ngộ chính trị, phát động tư tưởng, quán triệt sâu sắc chủ trương xây dựng căn cứ của Khu ủy; tăng cường đoàn kết nhất trí, phát huy thắng lợi, kiên quyết khắc phục khuyết nhược điểm, động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, ra sức xây dựng căn cứ tiến nhanh, tiến vững chắc về các mặt: chính trị, kinh tế và văn hóa, xã hội...; đẩy mạnh sản xuất theo phương hướng mới, tăng nhanh tổng sản lượng lương thực, thực phẩm cả ba vùng ( trung, cao, thấp), chấm dứt nạn đói, tích cực củng cố, xây dựng thực lực, chính trị, quân sự ở cơ sở, đánh bại các cuộc càn quét, đánh phá của địch, giành giữ dân, giữ vững căn cứ, giữ vững và từng bước cải thiện đời sống quần chúng, đóng góp phục vụ tốt cho nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước, góp phần giành thắng lợi to lớn, đồng thời tạo cơ sở và điều kiện góp phần hoàn thành kế hoạch 3 năm, chuẩn bị cho việc xây dựng căn cứ lâu dài”(1). Trên cơ sở đó, Đại hội đề ra 5 nhiệm vụ của Đảng bộ trong thời gian trước mắt: chính trị vững chắc, kinh tế phát triển, văn hóa giáo dục, y tế tiến bộ, quân sự mạnh mẽ, hành lang giao thông vận tải thông suốt” (2).

Đại hội bầu Ban Chấp mới của Đảng bộ gồm 15 đồng chí, trong đó có 2 dự khuyết, 5 ủy viên Ban Thường vụ. Đồng chí Trần Hùng được cử làm Bí thư Huyện ủy, đồng chí Hồ Văn Reo và đồng chí Lâm Trọng Hỷ được cử làm làm Phó Bí thư Huyện uỷ. Sau đó, đồng chí Trần Hùng ra miền Bắc, đồng chí Nguyễn Ngọc Quyến được Tỉnh ủy điều động về làm Bí thư Huyện ủy. Đại hội lần này có ý nghĩa trong việc phát triển toàn diện phong trào cách mạng ở Bắc Trà My, đặc biệt là công tác xây dựng căn cứ địa cách mạng

Năm 1972, với sự tấn công dồn dập, vũ bão của quân và dân ta trên khắp chiến trường miền Nam, vùng giải phóng được mở rộng và các khu căn cứ địa cách mạng càng được bảo đảm vững chắc, an toàn. Cả năm này, địch không mở một cuộc hành quân nào lên Trà My. Theo sự chỉ đạo Ban Cán sự Nam Trà, nhân dân một số xã vùng cao đã xắt sắn phơi khô rồi cho vào bao nilon thả trôi theo sông Tranh về xuôi để phục vụ cho chiến dịch đánh vào quận lỵ Tiên Phước. Lực lượng vũ trang Nam Trà My tập trung luyện tập, củng cố tổ chức. Ở Bắc Trà My, đã điều động trung đội 1 và trung đội 2 để thành lập đại đội tập trung của huyện, gồm 50 chiến sĩ, lấy tên là đơn vị 72, đồng thời củng cố lại trung đội 3, đồng thời ở mỗi xã thành lập một đại đội tập trung, số lượng du kích xã toàn huyện là 319 người. Công tác bố phòng cũng được chú ý đúng mức. 6 tháng đầu năm 1972, huyện Bắc Trà My đã cắm thêm 23.965 cây chông, 185 lưỡi thò, làm 15 công sự bắn máy bay, 117 hầm chông, 36 hầm chiến đấu. Ở Nam Trà My, theo sự chỉ đạo của Huyện ủy, lực lượng vũ trang địa phương đã xuống hoạt động ở Tiên Phước, bao vây đồn Phước Lâm, đánh được 4 trận, diệt 26 tên địch. Cũng trong năm 1972, du kích các xã vùng trung cùng với bộ đội địa phương đã truy bắt 10 tên tù binh đang trên đường tẩu thóat...

Một hoạt động đáng chú ý trong năm 1972 là đưa nhân dân trong khu dồn Phước Lâm về lại làng cũ. Số dân sống trong khu dồn Phước Lâm gồm 577 người dân của xã Đốc và Xiêm Rang bị địch xúc tát từ năm 1970. Đời sống nhân dân trong khu dồn rất khổ cực, bị địch kèm chặt chẽ, hàng ngày chỉ ra khỏi khu dồn vào lúc 8-9 giờ sáng để sản xuất và về lại khu dồn không qúa 4 giờ chiều. Ban đêm lại bị bắt canh gác. Chúng còn ép nhân dân đi Nam Bộ để sống. Do đời sống khổ cực nên sau một thời gian, gần 200 người bị chết. Trước tình hình đó, đội công tác Ban cán sự khu Nam Trà cùng đội công tác huyện Bắc Trà My và xã Tiên Trà đã tìm cách bắt mối, liên hệ với những đảng viên, cán bộ cũ và những quần chúng tiến bộ để tuyên truyền, phát động tư tưởng để lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống lại những thủ đoạn kèm kẹp của địch cũng như chuẩn bị bung về làng cũ. Ta đã thành lập Ban Cán sự khu dồn, gồm 3 người. Nội dung đấu tranh tập trung vào những vấn đề đòi tự do đi lại làm ăn, chống bắt lính, đòi cứu lạt, đòi trở lại làng cũ. Sau khi xây dựng cơ sở, phát động quần chúng, ngày 14.5.1972, phần lớn nhân dân khu dồn Phước Lâm đã trở về làng cũ. Để đồng bào từ khu dồn trở về sớm định nơi ở và có lương thực để ăn, ngày 17.5.1972, Ban Thường vụ Huyện ủy Bắc Trà My, đã có chỉ thị kêu gọi đồng bào cả huyện giúp đỡ, nhờ đó đồng bào đã sớm ổn định nơi ăn, chốn ở và tích cực tham gia kháng chiến.

Ở Nam Trà My sang năm 1972, ở các xã Zút, Giác, Poa, Riềng, Tong, Mai, Rây, Trà Ngươi lại xảy ra tình trạng nhân dân thiếu ăn và lạt muối. Trước tình hình đó, Huyện ủy Nam Trà My triệu tập hội nghị và nhận định: Nạn đói có nguy cơ lan rộng, nặng nhất là xã Zút và 3 thôn ở xã Giác. Hội nghị đặt vấn đề cấp bách phải cứu đói, chống đói và tập trung lực lượng, có kế hoạch dập tắt nạn đói. Thực hiện chủ trương đó, trong năm 1972, Đảng bộ và nhân dân Nam Trà My đã tích cực huy động lương thực chống, cứu đói cho các xã trên được 2.238 kg gạo, 5.278 lon muối, 60 ang sắn khô, 8.200 kg sắn tươi, 213 ang lúa giống, 300kg bắp hạt, 500 lon bắp giống, 200.000 đồng. Kết quả đến cuối năm chỉ còn lại 307 người đói so với 1.417 người vào đầu năm. Bên cạnh nạn đói cơ bản được dập tắt, phong trào sản xuất của nhân dân được phục hồi. Trong năm này, Nam Trà My sản xuất tổng cộng 1.200 tấn lương thực quy bột.

Tháng 10.1972, do tình hình cách mạng chuyển biến thuận lợi, Khu ủy V quyết định giải thể Khu A và giao các huyện miền núi về lại cho các tỉnh Kon Tum, Quảng Ngãi, Quảng Nam và đặc khu Quảng Đà trực tiếp chỉ đạo. Tuy nhiên để chỉ đạo phong trào cách mạng ở miền núi được sâu sát, về mặt tổ chức và nhiệm vụ, các Ban cán sự Nam Trà và Lam Sơn vẫn được giữ nguyên. Như vậy sau hơn 3 năm trực thuộc Khu A, đến nay các huyện Nam Trà My và Bắc Trà My lại thuộc Tỉnh ủy Quảng Nam chỉ đạo

Đầu năm 1973, đồng chí Hồ Văn Na, Phó Bí thư Huyện ủy Nam Trà My được điều động về làm Phó Bí thư Huyện ủy Bắc Trà My, đồng chí Phạm Đình Hường- Phó Bí thư Huyện ủy Phước Sơn được điều động về làm Phó bí thư Huyện ủy Nam Trà My.

Bị thua đau ở cả hai miền Nam, Bắc, đế quốc Mỹ buộc phải ký kết Hiệp định Pa ri vào ngày 27.1.1973, cam kết rút hết quân về nước. Đây là một thắng lợi của nhân dân ta, mở ra bước ngoặt cho nhân dân ta hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Tuy nhiên, từ sáng ngày 28.1.1973, vào lúc Hiệp định Pa- ri vừa có hiệu lực, quân đội Sài gòn đã tung hầu hết quân chủ lực và địa phương thực hiện âm mưu “Tràn ngập lãnh thổ” nhằm chiếm lại vùng ta kiểm soát trước khi ký Hiệp định Pa- ri. Tuy nhiên hành động lấn chiếm của chúng đã bị ta ngăn chặn.

Trong thời gian này, huyện Nam Trà My đã phục vụ cho đại diện Uỷ ban Liên hợp bốn bên thực hiện nội dung của Hiệp định Pa-ri. Đáng kể là huy động nhân dân đóng góp gỗ và công dựng khán đài, lán trại tại sân bay Trà My; lực lượng vũ trang tham gia bảo vệ các phái đoàn đến làm việc.

Cũng như cả miền Nam, phong trào cách mạng của hai huyện Nam Trà My và Bắc Trà My đã phát triển lên một bước mới. Tuy nhiên đây cũng là thời gian hai huyện phải đối phó với hai khó khăn lớn là nạn đói và dịch sởi. Dịch sởi xảy ra từ đầu năm 1973, hai huyện có 3.423 người bị bệnh, có nơi đến 70% số dân bị đau và có 61 người chết trong tổng số 170 người chết do bị nhiều bệnh khác nhau. Trong 61 người chết do sởi, Bắc Trà My có 13 người, Nam Trà My có 48 người. Trong khi đó, do các vụ sản xuất năm 1972 và vụ Đông xuân năm 1973 bị mất mùa, lương thực dự trữ không nhiều nên tình trạng đói xảy ra nghiêm trọng. Dù vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Nam Trà My và Đảng bộ Bắc Trà My, nhân dân hai huyện đã khắc phục những khó khăn gian khổ, tích cực góp công góp sức cho kháng chiến. Ban Cán sự khu Nam Trà đã có Chỉ thị số 17- CT về tập trung sức chống đói, cứu đau, nhanh chóng ổn định đời sống nhân dân, phòng chống đói, đau sắp đến. Chỉ thị xác định nhiệm vụ trọng tâm, đột xuất, cấp bách của các đảng bộ miền núi cho đến tháng 9. 1973 là cứu đói, đau, ổn định đời sống nhân dân; đồng thời cũng nêu những biện pháp cụ thể để chống đói, cứu đau. Khu ủy V đã hỗ trợ cho Nam Trà My 21 tấn gạo và 400 m vải và thuốc uống. Nhờ sự hỗ trợ của Khu ủy và chủ trương của Huyện ủy với những biện pháp thiết thực cho nên cuối năm 1973 cả hai huyện cơ bản giải quyết được nạn đói, đau.

Một đóng góp đáng kể của nhân dân hai huyện trong thời gian này là tham gia xây dựng đường giao thông nội bộ và đường chiến lược từ Bắc vào Nam qua hai huyện, đường chiến lược từ miền núi xuống đồng bằng. Cụ thể năm 1971, nhân dân Nam Trà My đã góp 23.559 công lao động và đào đắp 9.107 m đường ôtô trên công trường III, góp 13.535 công lao động, đào đắp 4.423 m đường trên công trường II...Đạt nhiều thành tích hơn cả là các xã Mai, Giác, Tong và đặc biệt là xã Ngheo, huyện Nam Trà My.

Cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên và phát triển đảng viên mới theo Nghị quyết của Ban Cán sự Nam Trà tháng 10.1971 ở Nam Trà My và Bắc Trà My đạt những kết quả bước đầu. Đảng viên đã nhận thức tốt hơn về tình hình và nhiệm vụ, thấy được thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bản chất của địch cũng như thời cơ của cách mạng, vai trò của việc xây dựng căn cứ địa miền núi. Đã khắc phục được tư tưởng cá nhân cùng những biểu hiện lệch lạc khác. Trong kiểm điểm, mỗi đảng viên đã tự liên hệ bản thân, thấy được hạn chế của bản thân và tự đề ra hướng khắc phục. Ở Nam Trà My, kết quả phân loại đảng viên năm 1974 cho thấy số đảng viên phấn đấu đã được nâng lên và đảng viên phấn đấu chưa tốt và kém giảm xuống. Đa số chi bộ đều phát triển được đảng viên mới. Cấp ủy đã quan tâm giúp đỡ, bồi dưỡng những nhân tố tích cực trong các đoàn thể quần chúng để rèn luyện và kết nạp vào Đảng. Hai năm 1973-1974, đã mở được 24 lớp bồi dưỡng kết nạp Đảng; kết nạp được 67 đảng viên mới, trong đó người dân tộc thiểu số có 53 đồng chí, ở xã có 34 đồng chí, nữ có 7 đồng chí và thành phần cơ bản có 60 đồng chí. Nhờ sự quan tâm tích cực đó mà Đảng bộ ngày càng mạnh thêm, năng lực lãnh đạo ngày một vững vàng và sức chiến đấu của Đảng bộ được bổ sung nhân tố mới. Công tác nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ cũng được chú ý. Vai trò và chức năng của chi bộ nhờ đó được phát huy hơn trước. Qua phân loại cho thấy, số chi bộ cơ sở sinh hoạt tốt có 3, Đảng bộ cơ sở sinh hoạt khá có 1, chi bộ thôn sinh hoạt tốt có 5, chi bộ cơ quan trên huyện sinh hoạt tốt có 4. Ở Đảng bộ huyện Nam Trà My, công tác phát triển đảng viên cũng có bước chuyển mới. Năm 1973, Đảng bộ đã kết nạp 35 đảng viên mới; năm 1974, kết nạp được 27 đảng viên mới... Chất lượng đảng viên cũng được nâng lên. Kết quả phân loại đảng viên năm 1974 cho thấy, trong 323 đảng viên ở các chi, đảng bộ xã thôn, có 100 đảng viên phấn đấu tốt; trong 77 đảng viên ở các chi bộ cơ quan trên huyện, có 40 đảng viên phấn đấu tốt, không có đảng viên phấn đấu còn kém.

Về hệ thống chính quyền đã có sự củng cố một bước. Ở Nam Trà My, tháng 10.1973, Uỷ ban Nhân dân cách mạng huyện chỉ đạo củng cố chính quyền xã, thôn. Theo đó, 13/13 xã đã bầu lại Hội đồng nhân dân xã, bầu ủy ban xã và thôn, đồng thời tiến hành củng cố các ban, ngành cấp xã. Chính quyền từ huyện xuống xã đều phát huy được tác dụng nhất định trong việc tổ chức, động viên, hướng dẫn nhân dân tổ chức các mặt công tác địa phương. Đáng kể là đã lãnh đạo vỡ ruộng, làm nà, trồng quế, vay tín dụng để mua trâu bò, làm thủy lợi, hướng dẫn cho nhân dân cách ăn ở, củng cố phong trào dạy văn hóa ở thôn xây dựng phong trào y tế xã thôn, vận động thanh niên đi thoát ly tham gia kháng chiến, đóng góp quỹ nuôi quân... Mở được trường nội trú ở xã Tong với khoảng 70 học viên. Một số xã tổ chức được bộ phận thường trực ở cơ quan, như Nú, Ngheo, Mai, Don, Tong, Riềng Ở Bắc Trà My, trong năm 1974 đã bầu lại Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân xã được 8/ 9 xã. Số lượng đại biểu Hội đồng Nhân dân của 8 xã có 166 vị, trong đó có 10 nữ, 44 quần chúng; uỷ ban Nhân dân cách mạng xã có 50 vị, trong đó có 2 nữ. Ở huyện, thành lập Đảng Đoàn chính quyền có 7 đồng chí để trực tiếp lãnh đạo chính quyền được kịp thời và sâu sát; củng cố lại Uỷ ban Nhân dân cách mạng huyện gồm 7 đồng chí.

Để động viên quần chúng tích cực tham gia kháng chiến, Tỉnh ủy Quảng Nam chủ trương tổ chức đợt phát động tư tưởng trong quần chúng. Ban Cán sự khu Nam Trà đã chọn xã Nú, huyện Nam Trà My để phát động điểm nhằm rút kinh nghiệm nhân ra toàn khu. Ban Cán sự đã thành lập một đoàn công tác xuống xã Nú để phát động từ ngày 10.6 đến ngày 20.12.1973. Nú là một xã nằm giáp ranh giữa đồng bằng và miền núi, có đồng bào dân tộc Cor sinh sống. Nhân dân địa phương có truyền thống đấu tranh yêu nước và cách mạng, có nhiều đóng góp vào những thành tích chung của nhân dân cả huyện. Tuy nhiên, từ đầu năm 1973, vai trò lãnh đạo của cơ sở Đảng và hệ thống mặt trận, chính quyền, các đoàn thể bị giảm sút; trong cán bộ, đảng viên xuất hiện tư tưởng ngại chiến tranh, nhận thức về xây dựng miền núi không rõ. Kết quả qua phát động, phong trào đã có bước chuyển đáng kể. Vai trò của cấp ủy, nhất là đồng chí bí thư chi ủy thể hiện khá rõ. Chi bộ đã duy trì được sinh hoạt đều hơn, nội dung sinh hoạt phong phú. Các đoàn thể như phụ nữ, thanh niên, thiếu niên đã có bước chuyển. Chính quyền đã bắt đầu làm việc theo hệ thống và chức năng của mình. Các mặt sản xuất, đời sống nhân dân cũng có mặt tiến bộ. Qua phát động, cán bộ, đảng viên và nhân dân đã thấy được sự thất bại tất yếu của địch và thắng lợi cuối cùng của cách mạng Việt Nam.

Trong khi đó ở Bắc Trà My đã tiến hành quy hoạch vùng sản xuất và cây trồng. Toàn huyện chia ra làm hai vùng sản xuất. Vùng thứ nhất là vùng có đất bằng và có điều kiện phát triển nông nghiệp gồm các xã vùng thấp: Đốc, Xiêm Rang, Pui. Hướng định canh, định cư ở vùng này là dọc theo các trục lộ giao thông nơi có đất có khả năng phát triển cây lương thực. Vùng thứ hai là vùng núi non không có đất bằng, gồm các xã còn lại. Hướng của vùng này là định canh, định cư tại chỗ, phát triển ruộng bậc thang và trồng cây đặc sản: sâm, quế... Xác định các vùng sản xuất và quy hoạch hướng cây trồng cho mỗi vùng là một bước chuẩn bị nhằm phát huy khả năng đất đai của địa phương, khả năng chuyên nghiệp của nhân dân để từ đó Huyện uỷ lãnh đạo toàn dân đẩy mạnh sản xuất và sản xuất đúng hướng đưa nền kinh tế của huyện tiến lên.

Công tác mậu dịch sau khi ký Hiệp định Pa ri đã có góp phần phục vụ đắc lực cho sản xuất và đời sống. Ở Nam Trà My, đã tổ chức được một số tổ ủy thác đến tận thôn, nóc. Năm 1973, đã mua vào 32.700 kg lúa (năm 1972 không có), 2.250 kg gạo (5.610 kg), 200.000 kg sắn (88.435 kg), 1.650 kg bắp (14.884 kg); bán ra 7.900 kg muối (năm 1972 bán 1.685 kg), 170 cái rựa (97 cái), 1.685 bộ áo quần, 1.800 m nilong (262 m), vải 7.500 m (1.354 m), mỳ chính 382 kg (8 kg), soong 280 cái (60 cái).... Ở Bắc Trà My, công tác này cũng đạt nhiều kết quả, đáp ứng nhu cầu cho sản xuất và đời sống của nhân dân. Trong thời gian này, hai huyện còn vận động nhân dân bán quế để ủy thác xuất khẩu, được 400 tấn. Số quế này được vận chuyển ra Bắc theo đường Trường Sơn.

Trong không khí phấn khởi trước những thắng lợi mới, Đại hội các dân tộc thiểu số miền núi Quảng Nam được tổ chức. Đại hội lần này được tiến hành vào đầu tháng 2.1974, trong 4 ngày, tại Nước Xa. Tham dự Đại hội có 419 đại biểu, trong đó có đại diện của lãnh đạo huyện và các xã miền núi. Bản báo cáo tổng kết đã đánh giá những đóng góp to lớn của đồng bào các dân tộc thiểu số ở miền núi của tỉnh trong 18 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trong đó có công to lớn của đồng bào các dân tộc thiểu số hai huyện Nam Trà My và Bắc Trà My. Đại hội đã ra Nghị quyết với những nhiệm vụ cụ thể trong việc xây dựng miền núi của tỉnh ngày một vững mạnh, đồng thời ra lời kêu gọi đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi trong tỉnh hãy đoàn kết chặt chẽ thành một khối sức mạnh vô địch, thực hiện thắng lợi nội dung Nghị quyết Đại hội. Kết quả của Đại hội các dân tộc miền núi của tỉnh đã động viên tinh thần cán bộ, đảng viên và nhân dân hai huyện Nam Trà My và Bắc Trà My tiếp tục tham gia kháng chiến, góp phần đưa sự nghiệp cách mạng của Đảng đi đến thắng lợi hoàn toàn.

Thể theo nguyện vọng của đồng bào cả nước, Trung ương Đảng quyết định xây dựng lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hà Nội, nhằm giữ gìn thi hài của Người cho muôn đời con cháu mai sau. Cùng với nhiều địa phương trong cả nước, Đảng bộ và nhân dân huyện Nam Trà My đã khai thác gỗ quý để góp phần xây dựng lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Việc khai thác gỗ ở Quảng Nam giao cho lâm trường Trà My. Lâm trường Trà My lúc này nằm ở km 92, bên dòng sông Bui, Nước Nẻ. Một đợt thi đua được phát động, lấy tên “Công trường khai thác gỗ xây dựng lăng Bác”. Ban Chỉ đạo công trường do đồng chí Tô Đình Cơ- Trưởng ban Lâm nghiệp Khu V làm trưởng ban, đồng chí Lê Ba, Giám đốc Lâm trường Trà My làm Phó trưởng ban. Dự lễ khởi công có đông đảo cán bộ khu ủy V, Tỉnh ủy Quảng Nam, đặc biệt có đồng chí Võ Chí Công, Bí thư khu ủy V. Kế hoạch được giao cho lâm trường là khai thác 42 m3 trong thời gian 2 tháng. Ba mươi thợ rừng của các dân tộc Cor, Cadong đầy kinh nghiệm của Trà My được giao thực hiện nhiệm vụ này. Mặc dù có lúc gặp mưa gió, đường xói lỡ, máy bay địch đánh phá nhưng công nhân, thợ rừng Trà My không ngại hy sinh, gian khổ, nhiều đêm thức trắng làm việc để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Kết quả, lâm trường khai thác được 64 m3, vượt 22 m3 so với kế hoạch, hoàn thành trước thời gian một tháng. Bên cạnh khai thác gỗ quý, huyện Nam Trà My còn gửi một đoạn vỏ quế có đường kính khoảng 20 cm và 2 cây quế con cao 1m. Đây là một vinh dự lớn, đồng thời thể hiện tình cảm của nhân dân Trà My đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.

Được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Quảng Nam, tháng 4.1974, Đảng bộ huyện Bắc Trà My tiến hành Đại hội lần thứ VI và Đảng bộ huyện Nam Trà My đã triệu tập Đại hội lần thứ VII.

Đại hội đại biểu Đảng bộ Nam Trà My họp từ ngày 7 đến ngày 9. 4.1974 tại cơ quan Huyện ủy ở Nước Tưng, xã Giác. Về dự Đại hội có 43 đại biểu đại diện cho 483 đảng viên trong Đảng bộ. Đại hội kiểm điểm tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tháng 11.1971. Về công tác xây dựng hậu cứ, phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, Đại hội nhận định trong thời gian qua có chuyển biến lớn. Công tác định canh, định cư, cải tiến kỹ thuật sản xuất nông nghiệp được thực hiện một bước trên phạm vi toàn huyện. Chính nhờ đó mà nhân dân trong huyện đã không những sản xuất lương thực đủ ăn mà còn có lương thực nuôi quân và bán nghĩa vụ cho cách mạng. Nạn đói nhanh chóng được dập tắt. Đại hội đánh gía cao các phong trào du kích chiến tranh, phong trào đi dân công phục vụ chiến trường và phong trào thanh niên xung phong xây dựng quê hương; ghi nhận thành tích xuất sắc đào đắp 15km đường ôtô của quân và dân toàn huyện trong hai năm 1973-1974, những thắng lợi vẻ vang của lực lượng vũ trang và du kích địa phương trong các đợt hoạt động ở Tiên Phước, Tam Kỳ... Về công tác xây dựng, củng cố, phát triển Đảng, Đại hội đánh gía trong hai năm qua đã có những chuyển biến tốt. Chỉ ra nguyên nhân thắng lợi, Đại hội khẳng định là do Đảng bộ quán triệt được chủ trương của cấp trên; Đảng bộ và quân dân toàn huyện nỗ lực, kiên quyết đưa phong trào cách mạng địa phương tiến lên vững vàng. Đồng thời, là do công tác tổ chức chỉ đạo của các cấp ủy chặt chẽ, cụ thể.

Đại hội đề ra phương hướng nhiệm vụ của Đảng bộ trong giai đoạn tới là: “Động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân trong huyện, ra sức phát huy thắng lợi đã giành được, kiên quyết khắc phục những khuyết điểm, tăng cường đoàn kết nhất trí, tranh thủ điều kiện thuận lợi, nỗ lực xây dựng căn cứ vững mạnh về mọi mặt; khẩn trương đẩy mạnh và phát triển chăn nuôi, sản xuất theo phương hướng mới để tăng nhanh khối lượng lương thực và thực phẩm đủ ăn và có dự trữ; phát triển y tế, văn hóa, làm thay đổi một bước bộ máy xã hội miền núi. Ra sức xây dựng lực lượng địa phương và dân quân du kích, chuẩn bị sẵn sàng tư thế đánh địch, tăng cường công tác tư tưởng, tổ chức, đào tạo đội ngũ cán bộ góp phần đánh bại âm mưu bình định, lấn chiếm của địch, giành thắng lợi mới và tạo điều kiện xây dựng những năm đến” (1).

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành mới của Đảng bộ gồm 19 đồng chí, trong đó có 2 dự khuyết, 5 ủy viên Ban Thường vụ. Đồng chí Đỗ Kim Bân được Tỉnh uỷ chỉ định làm Bí thư, đồng chí Phạm Đình Hường được bầu làm phó Bí thư Huyện ủy.

Đại hội Đảng bộ huyện Bắc Trà My lần thứ VI được tiến hành, tại Nước Bầu, xã Tập. Dự Đại hội có đông đủ các đại biểu đại diện cho trên 300 đảng viên trong toàn Đảng bộ. Sau khi tổng kết tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tháng 2.1972, Đại hội nêu ra phương hướng, nhiệm vụ của Đảng bộ và nhân dân trong huyện trong thời gian đến.

Đại hội bầu Ban Chấp hành mới của Đảng bộ gồm 17 đồng chí, trong đó có 3 dự khuyết, 5 ủy viên Ban Thường vụ. Đồng chí Nguyễn Ngọc Quyến được bầu làm Bí thư, đồng chí Hồ Văn Reo làm Phó Bí thư Huyện uỷ.

Đại hội Đảng bộ huyện Bắc Trà My và Nam Trà My lần này có tầm quan trọng trong việc động viên nhân dân đẩy mạnh sản xuất và chiến đấu, vừa sản xuất giỏi vừa chiến đấu giỏi, công tác giỏi, góp phần cùng nhân dân cả tỉnh và cả nước anh dũng tiến lên quét sạch Mỹ-ngụy, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.

Nhằm phát huy thắng lợi của chiến dịch Hè 1974, Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân Khu V quyết định mở Chiến dịch Thu 1974. Kết quả, ta đã giải phóng Nông Sơn- Trung Phước, đặc biệt là giải phóng chi khu quận lỵ Thượng Đức. Riêng Nam Trà My và Bắc Trà My, để phối hợp với chiến trường chính, theo sự chỉ đạo của Tỉnh đội, lực lượng vũ trang hai huyện đã tham gia bao vây căn cứ Phước Lâm, trong đó, lực lượng vũ trang Nam Trà My đánh 2 trận, diệt 12 tên địch.

Những thắng lợi liên tiếp của quân và dân miền Nam trong năm 1974 cho thấy địch đã suy yếu, quân chủ lực ta có thể đánh bại quân chủ lực địch. Tháng 10.1974, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp và quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong vòng hai năm 1975-1976. Trong cuộc họp tiếp theo từ ngày 19.12.1974 đến ngày 8.1.1975, Bộ Chính trị chỉ rõ thêm: nếu thời cơ đến sớm thì ta giành thắng lợi trong năm 1975.

Như vậy thời cơ giành thắng lợi cuối cùng của nhân dân ta đã đến. Cùng với toàn Đảng, toàn quân, toàn dân cả nước và cả miền Nam, Đảng bộ và nhân dân hai huyện Nam Trà My và Bắc Trà My làm hết sức mình cho nhiệm vụ của Đảng đã đề ra. Ngay từ đầu tháng 12.1974, theo sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, mỗi huyện thành lập 3 đại đội thanh niên xung phong để chuyển vũ khí ra chiến trường. Bên cạnh đó, hai huyện còn tích cực hưởng ứng chiến dịch tấn công đồng cỏ, khai hoang vỡ hóa nhằm tăng diện tích sản xuất, tạo thêm nguồn lương thực phục vụ cho chiến trường. Kết quả riêng huyện Nam Trà My, khai hoang đạt 70/30 ha so với kế hoạch. Nhờ đó năm 1974 nhân dân trong huyện đã có đủ lương thực để ăn và đóng góp một phần cho kháng chiến. Tháng 2.1975, hàng trăm du kích và thanh niên hai huyện tham gia vận chuyển hàng trăm tấn vũ khí từ Phước Sơn xuống Tiên Phước.

Ngày 10.3.1975, cùng với chiến dịch giải phóng Tây Nguyên, chiến dịch Tiên Phước- Phước Lâm được mở màn, mở đầu cho cuộc tổng tấn công và nổi dậy giải phóng quê hương Quảng Nam. Theo chủ trương của Khu ủy V và Tỉnh ủy Quảng Nam, hai Huyện ủy Nam Trà My và Bắc Trà My đã huy động, tổ chức nhân dân các dân tộc địa phương thành đội ngũ, sẵn sàng chờ mặt trận gọi là lên đường. Tất cả cán bộ, đảng viên các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể đều ra phía trước, ngay cả cơ quan Huyện ủy cũng chỉ phân công một hoặc hai đồng chí trực lo công tác phía sau. Đặc biệt hai trung đội trong lực lượng vũ trang của hai huyện Nam Trà My và Bắc Trà My đã được giao nhiệm vụ tham gia bao vây bức hàng đồn Phước Lâm. Đây là quận lỵ của quận Hậu Đức của địch, nơi tập trung bọn nguỵ quyền của Trà My. Được sự hỗ trợ của một lực lượng nhỏ của sư đoàn 2, cùng lúc với mũi tiến công khác vào Tiên Minh, Suối Đá, cao điểm 211, lực lượng vũ trang Nam Trà My, Bắc Trà My đã vây áp cứ điểm này. Kết quả, lực lượng biệt kích địch bỏ đồn theo đường rừng tháo chạy, còn đại bộ phận ngụy quân, ngụy quyền còn lại tan rã tại chỗ. Tính chung trong chiến dịch, lực lượng vũ trang hai huyện Nam Trà My và Bắc Trà My đã đánh 5 trận, diệt 12 tên địch, thu 12 khẩu súng AR15, 2.100 viên đạn các loại, 1 máy thông tin, 1 máy đánh chữ và nhiều quân trang, quân dụng. Ngay sau Tiên Phước đuợc giải phóng, Đảng bộ, quân và dân Nam Trà My, Bắc Trà My đã tham gia cùng huyện bạn ổn định tình hình, truy quét, gọi hàng ngụy quân, ngụy quyền còn lẫn trốn trong rừng.

Ngày 24.3.1975, ta giải phóng thị xã Tam Kỳ- tỉnh lỵ tỉnh Quảng Tín; ngày 29.3.1975, giải phóng Đà Nẵng- khu liên hợp quân sự lớn thứ hai của Mỹ- ngụy ở miền Nam; ngày 30.4.1975, giải phóng Sài Gòn- giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Ngày 6.5.1975, trong không khí nức lòng của mùa Xuân đại thắng, tại Trà My (thị trấn) và xã Tập, hai huyện Nam Trà My, Bắc Trà My đã tổ chức mít tinh trọng thể mừng miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước. Tại cuộc mít tinh, Đảng bộ, nhân dân hai huyện đã ôn lại những chặng đường đánh thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của nhân dân cả nước nói chung và nhân dân Trà My nói riêng; đồng thời nêu quyết tâm lãnh đạo nhân dân nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng Trà My thành quê hương giàu mạnh...

Có thể nói trải qua chặng đường 21 năm đấu tranh đầy gian khổ, hy sinh nhưng vô cùng anh dũng, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã giành được thắng lợi vẻ vang. Với đại thắng mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất trọn vẹn. Từ đỉnh cao thắng lợi này, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với nhân dân cả nước, Đảng bộ và nhân dân Trà My bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

I. RA SỨC KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, CẢI THIỆN ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN (3.1975 - 5.1979)

Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước mở ra bước ngoặt trong lịch sử dân tộc ta. Cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới: giai đoạn cả nước độc lập, thống nhất cùng thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong đó nhiệm vụ trước mắt là tiếp tục khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế- xã hội, từng bước ổn định đời sống nhân dân.

Khi bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ của thời kỳ mới, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong huyện Nam Trà My và Bắc Trà My có những thuận lợi cơ bản như như tài nguyên phong phú, đa dạng, quan hệ sản xuất mới được củng cố, trên địa bàn hai huyện được giải phóng sớm hơn các địa phương khác hơn bốn năm, đời sống nhân dân được cải thiện một bước. Đó là những cơ sở quan trọng giúp cho Đảng bộ và nhân dân trong hai huyện Nam Trà My và Bắc Trà My vững bước cùng cả tỉnh, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Tuy nhiên, cùng với những khó khăn chung của đất nước, Đảng bộ và nhân dân Nam Trà My, Bắc Trà My còn phải đối mặt với nhiều thách thức. Đó là thiệt hại lớn do cuộc chiến tranh của đế quốc Mỹ gây ra chưa được khôi phục kịp thời, hai huyện có trên 105 người chết, 120 người bị thương, 1.200 người bị dồn vào khu dồn và ấp chiến lược, 200 người bị bắt tra tấn, cầm tù. Đặc biệt, trên 16.000 ha rừng bị tàn phá nặng nề bởi hàng ngàn tấn bom đạn và chất độc hóa học. Chúng cướp của đồng bào trên 5 triệu gốc sắn, 25.000 ang lúa, hàng ngàn gia súc, gia cầm. Nhưng tác hại lớn hơn là hậu quả của chất độc màu da cam gây hậu quả lâu dài, ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống sinh hoạt của đồng bào (1). Cơ sở vật chất còn nghèo nàn lạc hậu. Sản xuất tự cung, tự cấp là phổ biến. Năng suất lao động thấp, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, nạn đói cơm lạt muối xảy ra thường xuyên, toàn huyện có trên 90 % hộ nằm trong diện đói nghèo.

Tình hình tư tưởng trong cán bộ, đảng viên toàn Đảng bộ lúc bấy giờ diễn biến phức tạp, cán bộ người Kinh muốn về đồng bằng, còn cán bộ người dân tộc thiểu số muốn nghỉ ngơi về nhà làm ăn, nặng việc gia đình, xem nhẹ công tác xã hội, phổ biến nhất là cán bộ, đảng viên ở cấp xã...

Về trình độ dân trí, do chính sách cai trị thâm độc, hà khắc của địch và do chiến tranh đã làm cho hơn hơn 90 % dân số bị mù chữ; mạng lưới trường lớp chưa mở rộng đều khắp, nhiều thôn trắng trường học, số trẻ trong độ tuổi đi học nhưng chưa được đến trường còn rất nhiều, toàn huyện mới có 120 giáo viên; điều kiện dạy và học rất khó khăn, phòng học rất tạm bợ, được làm bằng tranh, tre, nứa, lá. Ốm đau, dịch bệnh thường xuyên hoành hành song chưa được dập tắt kịp thời; các phong tục tập quán lạc hậu còn phổ biến và ngày càng có dấu hiệu phát triển làm ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống xã hội.

Tình hình ranh giới phức tạp do hoạt động chiến tranh tâm lý, phá hoại của bọn Ful-rô. Trong khi đó đội ngũ cán bộ, đảng viên chủ yếu là lực lượng trụ bám từ trong chiến tranh chống Mỹ, tuy có giác ngộ dân tộc, có truyền thống cách mạng song giác ngộ về giai cấp công nhân, về chủ nghĩa xã hội còn thấp.

Trước tình hình đó, Huyện ủy hai huyện đã có những biện pháp kịp thời, cấp bách nhằm giải quyết từng bước khó khăn, ổn định đời sống nhân dân.

Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Quảng Nam, tháng 5.1975, tại Nước Xa, Hội nghị hợp nhất huyện Bắc Trà My và huyện Nam Trà My được tiến hành. Đồng chí Võ Quỳnh ( Võ Văn Đoàn)- Phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam, Bí thư Ban cán sự khu Nam Trà chủ trì hội nghị. Hội nghị đã bàn biện pháp ổn định tình hình các mặt trên địa bàn huyện và công bố danh sách Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời, do Tỉnh ủy chỉ định gồm 29 đồng chí, đồng chí Đỗ Kim Bân, Tỉnh uỷ viên được chỉ định làm Bí thư; đồng chí Nguyễn Ngọc Quyến làm Phó Bí thư.

Cùng với việc thành lập Đảng bộ lâm thời, bộ máy tổ chức các ban ngành, đoàn thể của hai huyện cũng được sáp nhập và củng cố để đáp ứng với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị trong tình hình mới.

Tại Hội nghị này, đại biểu cũng được nghe thông báo quyết định của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc giải thể Ban Cán sự khu Nam Trà; sáp nhập, đổi tên một số xã của huyện Trà My cho phù hợp với điều kiện mới, cụ thể: Sát nhập xã Zút và Trà Ngươi thành xã Trà Thượng; sáp nhập xã Kót và Nú thành xã Trà Liên; sáp nhập các xã Riềng, Ngheo, Tong và Poa thành xã Trà Giáp; sáp nhập xã Rây và Vân Nãi thành xã Trà Vân; sáp nhập xã Iếp, xã Dơn và xã Leng thành xã Trà Leng; sáp nhập xã Xiêm Rang, Bui và xã Đốc thành xã Trà Đốc; sáp nhập xã Mai và xã Don thành xã Trà Mai. Đổi tên xã Nam Bền thành xã Trà Nam; xã Bắc Bền thành xã Trà Linh; xã Cang thành xã Trà Cang; xã Giác thành xã Trà Giác và xã Tập thành xã Trà Tập.

Đến năm 1976, tiếp nhận xã Tiên Trà thuộc huyện Tiên Phước về huyện Trà My. Như vậy, đến cuối tháng 12.1976, toàn huyện có 13 xã. Cơ quan huyện đóng tại xã Tiên Trà.

Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy Quảng Nam( tháng 5.1975) về khắc phục hậu quả chiến tranh, đưa dân về làng cũ, tháo gỡ bom mìn, khôi phục sản xuất, từng bước ổn định đời sống nhân dân, Đảng bộ huyện Trà My từng bước ổn định tình hình tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, vận dụng sáng tạo chính sách dân tộc của Đảng và đã để đề ra một số chủ trương, biện pháp, bước đi sát hợp trong quá trình xây dựng lại huyện sau chiến tranh, nhờ vậy, trong thời gian ngắn, tư tưởng nghi kỵ lần lượt được xóa bỏ, khối đoàn kết các dân tộc được củng cố hơn.

Trước thực trạng tình hình đội ngũ cán bộ cơ sở vừa thiếu lại vừa yếu, giữa năm 1975, Đảng bộ Trà My tăng cường hàng trăm cán bộ, đảng viên về vùng sâu, vùng xa để vừa vận động đồng bào đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống. Đây là chủ trương nhạy bén, đáp ứng nhu cầu cán bộ ở các xã.

Ngày 30.5.1975, huyện thành lập công trường 1/5 (công trường mở đường Nước Vin- Tắk Pỏ). Tiếp đến đầu năm 1976, đội cầu đường của huyện được thành lập. Đây là những đơn vị đóng vai trò tích cực trong việc vận động nhân dân làm đường giao thông miền núi.

Thực hiện chủ trương của Trung ương, tháng 10.1975, Đảng bộ Đặc khu Quảng Đà và Đảng bộ tỉnh Quảng Nam được hợp nhất thành Đảng bộ Quảng Nam- Đà Nẵng. Đảng bộ huyện Trà My đặt dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ Quảng Nam-Đà Nẵng.

Ngày 25.4.1976, Đảng bộ huyện Trà My lãnh đạo thành công cuộc bầu cử Quốc hội khóa VI trên địa bàn huyện. Kết quả có 98,78 % cử tri trong huyện đã tham gia bầu cử, trong đó có nhiều đơn vị có số cử tri tham gia đạt 100 %. Vinh dự cho Trà My, ông Trần Văn Mố được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa VI. Đây là người thứ hai ở huyện Trà My, sau đồng chí Đinh Tựu, được bầu vào đại biểu Quốc hội.

Thực hiện Chỉ thị 254 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng (khóa IV) về công tác giáo dục chính trị, thực hiện tự phê bình và phê bình, ngày 7.10.1976, Huyện ủy tổ chức đợt học tập chỉnh huấn với nội dung kiểm điểm lại quá trình thực hiện các chị thị, nghị quyết của Đảng, giải quyết một bước nhận thức về phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội, thấy rõ tinh thần tấn công vào nghèo nàn lạc hậu, khắc phục tư tưởng nghỉ ngơi, cá nhân chủ nghĩa, nặng gia đình, lơ là công tác, ý thức chấp hành chỉ thị, nghị quyết...Đây cũng là bước chuẩn bị cho Đại hội Đảng bộ các cấp đạt kết quả.

Thực hiện Thông tri của Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng về việc tổ chức Đại hội các cấp, từ ngày 14 đến ngày 17.10.1976, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Trà My lần thứ VIII, nhiệm kỳ 1976-1979 được tiến hành. Đây là Đại hội đầu tiên của Đảng bộ sau ngày đất nước thống nhất. Tham dự Đại hội có 96 đại biểu chính thức thay mặt cho 1006 đảng viên của 10 đảng bộ và 17 chi bộ cơ sở trực thuộc Đảng bộ huyện. Về dự và chỉ đạo Đại hội có đồng chí Hoàng Minh Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh.

Đại hội diễn ra trong bối cảnh sau gần một năm đất nước được hoàn toàn giải phóng và chuẩn bị tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV. Đại hội đã đánh giá hoạt động của Đảng bộ từ năm 1974 đến 1976 và đề ra phương hướng, nhiệm vụ những năm 1976-1979 là: Khẩn trương xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật, đồng thời từng bước cải thiện đời sống nhân dân là hai nhiệm vụ cơ bản, cấp bách và quan trọng; đẩy mạnh khai hoang xây dựng các cánh đồng, định canh định cư, làm thủy lợi; tích cực phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp; ra sức phát triển giao thông vận tải, mở rộng mạng lưới lưu thông phân phối, từng bước xây dựng cơ sở vật chất, tích cực xóa bỏ nghèo nàn lạc hậu, coi trọng phát triển sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế; kết hợp kinh tế với quốc phòng, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự xã hội; tăng cường sức chiến đấu của Đảng trên mọi lĩnh vực, khẩn trương đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

Đại hội đã bầu Ban chấp hành Đảng bộ huyện khóa VIII, nhiệm kỳ 1976-1979 gồm 19 đồng chí, trong đó có 2 đồng chí là uỷ viên dự khuyết; bầu Ban Thường vụ Huyện ủy Trà My gồm 7 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Ngọc Quyến được bầu làm Bí thư Huyện ủy, đồng chí Đỗ Kim Bân được bầu làm Phó Bí thư Huyện ủy.

Ngày 15.5.1977 được qui định là ngày bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân các cấp, Huyện Trà My có số cử tri tham gia bầu cử đạt 98,75%. Kết quả, toàn huyện có 26 đại biểu trúng cử vào Hội đồng Nhân dân huyện khóa I( nhiệm kỳ 1977-1981). Qua bầu cử, chính quyền các cấp được kiện toàn theo hướng tinh giản, gọn nhẹ nhưng vẫn đảm bảo chức năng quản lý và chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.

Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Trà My lần thứ VIII, các cấp ủy, chính quyền và nhân dân toàn huyện tập trung đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, trong đó lấy sản xuất lương thực làm chính.

Cùng với việc ra một số nghị quyết chuyên đề về phát triển nông nghiệp, hướng dẫn tổ chức thực hiện, huyện chỉ đạo các xã tích cực thâm canh tăng vụ, mở rộng vụ đông và xen ghép các loại cây hoa màu ngắn ngày trên đất hai vụ lúa, chuẩn bị tốt các khâu làm đất, giống, phân, nước và đảm bảo kỹ thuật, đúng thời vụ.

Với quyết tâm giành “ Vụ mùa thắng lợi”, nhân dân ở các địa phương trong huyện dấy lên phong trào thi đua lao động sản xuất sôi nổi. Trong hai năm 1977-1978, tổng diện tích khai hoang được hơn 144 ha đất trồng lúa ở khu vực Sông Trường, Nước Oa; trồng được 689 ha sắn, tỉa được 1915 ha bắp, trồng được 215 ha khoai lang. Ngoài ra, nông dân còn trồng cây ăn quả, cây nguyên liệu cho công nghiệp chế biến như: đậu phụng: 66 ha; mè: 134 ha; quế: 1.086.935 cây; trẩu: 46.641 cây. Việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất như áp dụng giống mới, tăng vụ, bón phân xanh, phân chuồng cho cây trồng, tổ chức làm thủy lợi nhỏ bước đầu đem lại một số kết quả. Hằng năm, ngành nông- lâm nghiệp huyện đều đạt và vượt kế hoạch sản xuất. Tổng sản lượng lương thực toàn huyện năm 1978 đạt 7.019 tấn, bình quân lương thực đầu người đạt 402 kg, tăng gấp đôi so với năm 1975. Đi đầu trong phong trào khai hoang vỡ hóa, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật là các xã Trà Liên, Trà Tập, Trà Thượng, Trà Đốc...

Phong trào làm thuỷ lợi phục vụ sản xuất được dấy lên mạnh mẽ. Năm 1977, huyện đã vận động nhân dân tham gia làm các công trình thủy lợi qui mô nhỏ, tiến hành tu bổ một số kênh mương dẫn nước. Đến năm 1978, công trình thủy lợi Nước Rinh (Trà Giáp) được khởi công xây dựng, góp phần phục vụ cho công tác định canh, định cư, phát triển sản xuất nông lâm nghiệp(1)

Xác định lâm nghiệp là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của huyện, vì vậy, từ đầu năm 1977, huyện đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, thành lập 7 đội sản xuất để khai thác và chế biến gỗ, thành lập 13 đội sản xuất chuyên lo trồng rừng ở các xã vùng thấp. Qua đợt phát động, bước đầu dấy lên phong trào trồng và ươm quế, thu hút hàng trăm lao động làm nghề rừng của các xã Trà Đốc, Trà Liên, Tiên Trà, góp phần giải quyết việc làm cho nhân dân.

Chăn nuôi bò, lợn và gia cầm được đẩy mạnh, huyện chủ trương cho nông dân vay vốn để phát triển đàn gia súc, gia cầm và tổ chức, hướng dẫn cho nhân dân cách phòng dịch bệnh trong chăn nuôi. Nhờ đó, số lượng đàn trâu tăng thêm 134 con; đàn bò tăng thêm 161 con và đàn lợn tăng thêm 200 con so với năm 1976.

Công tác định canh định cư được đặc biệt coi trọng. Tháng 2.1977, huyện thành lập Ban kiến thiết Sông Trường Nước Oa nhằm tập hợp số thanh niên xung phong để tổ chức khai hoang vỡ hóa, phục hóa, hướng dẫn cách thức sản xuất. Sau hơn một năm hoạt động, Ban Kiến thiết đã tiếp nhận gần 300 nhân khẩu ở một số huyện đồng bằng như Điện Bàn, Tam Kỳ, Thăng Bình...đi xây dựng kinh tế mới và bước đầu khai hoang hơn 1,5 ha diện tích lúa nước, tỉa 18 ha lúa, trồng 20 ha sắn, 9,8 ha chuối và thơm, nuôi hơn 20 con bò. Đây là cơ sở để tiếp tục đón nhận nhân dân các địa phương khác đến xây dựng khu kinh tế mới. Các xã Trà Linh, Trà Tập tiến hành qui hoạch vùng sản xuất, sinh hoạt từ 8 điểm dân cư, đón tiếp nhân dân xã Trà Đốc từ Phú Bổn về định cư tập trung thành 2 điểm. Các xã Trà Cang, Trà Vân, Trà Đốc, Trà Mai, Trà Giáp, Trà Thượng đang từng bước qui hoạch. Tuy vậy, vẫn còn một số xã như Tiên Trà, Trà Leng, Trà Giác...chưa thực hiện tốt, chưa nhận thức đúng đắn chủ trương xây dựng miền núi tiến lên.

Tiểu thủ công nghiệp có bước chuyển mới. Đáng chú ý, các hộ tư nhân đã chung vốn xây dựng được 1 lò gạch, năm 1977 sản xuất được 412.000 viên gạch, năm 1978 sản xuất được hơn 700.000 viên gạch; củng cố được 45 cơ sở rèn thủ công. Đặc biệt, tại Tiên Trà, nhân dân đã hình thành tổ ghép gia công với nhiều nghề như may mặc, mộc, sửa chữa đồng hồ, nhiếp ảnh... góp phần giải quyết việc làm, ổn định đời sống cho một bộ phận nhân dân.

Công tác xây dựng cơ bản đã tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ cho huyện mới hợp nhất, xây dựng xã Tiên Trà thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của huyện với khối lượng công việc gấp nhiều lần so với 2 năm trước. Trong hai năm 1977-1978, huyện đã tập trung đầu tư xây dựng một số công trình như trường Thanh niên dân tộc, trường Bổ túc văn hóa, trụ sở làm việc của một số cơ quan: Văn phòng Huyện ủy, trường Đảng, bưu điện, công an, mặt trận, trạm nông nghiệp, ngân hàng, xưởng gỗ, kho lương thực, bệnh viện, góp phần ổn định nơi làm việc cho đội ngũ cán bộ huyện, nơi học tập cho con em và nơi khám chữa bệnh cho nhân dân.

Hoạt động giao thông vận tải có nhiều cố gắng, trong hai năm 1977-1978, huyện đã vận động nhân dân tham gia hơn 2.777 ngày công khai thông hàng chục tuyến được với chiều dài hàng trăm km đường, hoàn thành tuyến đường Trà My- Tiên Phước, tu dưỡng đoạn đường Trà My- Nước Trắng, Trà My- Trà Giáp, ngoài ra còn tu bổ hàng trăm km, đường cũ, làm hàng chục cầu tạm qua sông suối, đào đắp được 3.634 m3 đất, đảm bảo thông xe đưa hàng phục vụ nhân dân một số vùng trong huyện.

Trên lĩnh vực thương nghiệp, các cơ sở mậu dịch quốc doanh và các cửa hàng mua bán áp dụng phương thức ký kết hợp đồng trao đổi hàng hai chiều với nông dân, huy động hàng chục cán bộ nội, ngoại thương đi thu mua hàng nông sản thực phẩm, phân phối hàng hóa phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Một số đơn vị kinh doanh có hiệu quả như cửa hàng Tắk Pỏ, trong hai năm 1977-1978, đơn vị được Ty thương nghiệp tỉnh tặng danh hiệu đơn vị thi đua tiên tiến.

Đặc biệt, ngày 25.10.1978, Huyện ủy Trà My có Chỉ thị 39 - CT/HU “về việc đẩy mạnh công tác sản xuất, gởi tiền tiết kiệm, trong đó lấy xã Tiên Trà làm thí điểm”. Đây là chủ trương đúng đắn nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn, thực hiện phong trào toàn dân tham gia gởi tiền tiết kiệm. Sau khi có chỉ thị, phong trào sản xuất và tiết kiệm được dấy lên mạnh mẽ trong nhân dân, quần chúng hăng hái thi đua lao động sản xuất, gởi tiền tiết kiệm.

Trên lĩnh vực văn hóa- xã hội có nhiều chuyển biến. Nhất là về giáo dục đào tạo, năm học 1977-1978, số lượng học sinh các cấp tăng 0,3 % so với năm học trước. Phong trào bổ túc văn hóa được nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ. Năm 1978, huyện đã đầu tư xây dựng được trường bổ túc văn hóa “vừa học vừa làm” và thu hút 2.578 học viên tham gia, góp phần nâng cao trình độ văn hóa- khoa học kỹ thuật cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt của các địa phương.

Ngày 30. 9.1978, Huyện ủy có Chỉ thị số 52- CT/HU “về việc đẩy mạnh học bổ túc văn hóa cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trong hai năm 1978-1979”. Đây là chủ trương quan trọng góp phần giải quyết vấn đề cấp bách lúc bấy giờ là chống và xóa mù chữ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, nâng cao từng bước trình độ dân trí.

Về công tác y tế, mạng lưới y tế cơ sở được củng cố. Các xã đều có cán bộ y tế thường trực để tiếp nhận và điều trị bệnh nhân. Công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện phong trào vệ sinh phòng bệnh, ăn, ở hợp vệ sinh, xây dựng hố xí bước đầu có kết quả. Trong 2 năm 1977-1978, huyện đã đầu tư xây dựng Trung tâm y tế huyện, đưa vào hoạt động 1 bệnh viện gồm 30 giường tại xã Trà Mai và 1 bệnh viện gồm 10 giường tại xã Tiên Trà, đã điều trị cho hơn 3.968 lượt người, khám bệnh cho 22.397 lượt người và đã kịp thời dập tắt dịch cúm, sốt rét, tiêu chảy xảy ra trên địa bàn.

Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao có nhiều tiến bộ. Phong trào thực hiện nếp sống văn hóa, văn minh trong nhân dân bước đầu có kết quả, nhiều gia đình đăng ký tham gia xây dựng gia đình “5 tốt”, một số xã thực hiện tốt vệ sinh phòng bệnh. Các lễ hội văn hóa được duy trì và góp phần làm phong phú đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc.

Hoạt động của ngành thương binh xã hội từ huyện đến cơ sở có nhiều cố gắng. Mặc dù đội ngũ cán bộ của ngành còn mỏng, ở huyện có 5 cán bộ chuyên trách, ở mỗi xã chỉ có một cán bộ, song trong hai năm 1977-1978, ngành đã tham mưu cho các cấp chính quyền giải quyết chế độ tiền tuất cho 3 gia đình thân nhân liệt sĩ, làm thủ tục cấp giấy chứng nhận thương binh cho 13 đối tượng, giải quyết chế độ nghỉ hưu cho 13 cán bộ, phân phối trên 12.200 bộ quần áo và cấp 3 tấn gạo cho số gia đình thiếu lương thực.

Công tác giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được tăng cường. Phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc được nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ. Nhờ vậy, trong hai năm 1977-1978, số vụ trộm cắp, phá rối an ninh trật tự trên địa bàn huyện giảm hẳn so với năm 1975-1976.

Lực lượng vũ trang huyện có nhiều cố gắng, thực hiện tốt nhiệm vụ sẳn sàng chiến đấu. Việc tổ chức huấn luyện, học tập nghĩa vụ quân sự được duy trì nề nếp. Kết quả, năm 1977, toàn huyện có 602 thanh niên đăng ký khám tuyển và có 67 thanh niên được tuyển nghĩa vụ quân sự, đạt 93,5 %, năm 1978, tuyển 68 thanh niên tham gia nghĩa vụ quân sự, đạt 108%. Bước đầu củng cố lượng lượng vũ trang huyện gồm 1 đại đội có 99 cán bộ chiến sĩ; lực lượng dân quân ở các xã, thôn được duy trì và củng cố một bước về chất lượng cũng như số lượng, toàn huyện có 680 dân quân.

Hoạt động của các cơ quan tư pháp bước đầu đạt một kết quả: Ban thanh tra huyện đã tiến hành thanh tra một số cơ quan, đơn vị có dấu hiệu tham ô, lãng phí; Tòa án huyện đã tổ chức cho nhân dân học tập kiến thức về pháp luật và bước đầu xét xử một số vụ án gây rối trật tự, trị an trên địa bàn huyện; Viện Kiểm sát nhân dân huyện được thành lập năm 1977, mặc dù chỉ có một cán bộ chuyên trách, song bước đầu nắm được tình hình vi phạm quyền làm chủ của nhân dân ở một số cán bộ cũng như nắm một số đơn thư khiếu nại, tố cáo của người dân đối với cán bộ các cơ quan đơn vị và xã, thôn.

Công tác xây dựng Đảng luôn được các cấp ủy Đảng quan tâm. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng được duy trì thường xuyên. Các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được quán triệt đầy đủ đến cán bộ, đảng viên và nhân dân. Công tác kiểm tra Đảng được đẩy mạnh. Trong hai năm 1977-1978, cơ quan kiểm tra Huyện uỷ đã tiến hành kiểm tra một số tổ chức cơ sở Đảng, phát hiện 19 đảng viên có dấu hiệu vi phạm và đã tiến hành xử lý kỷ luật bằng các hình thức khiển trách, cảnh cáo và cách chức.

Cùng với việc đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, hoạt động của chính quyền từ huyện đến cơ sở có nhiều tiến bộ, bộ máy được củng cố, đảm bảo vai trò quản lý nhà nước trên địa bàn.

Về công tác vận động quần chúng, trong những năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội IV của Đảng, Ủy ban mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ và công đoàn các cấp từng bước được củng cố và kiện toàn và có nhiều phong trào hoạt động thiết thực.

Trong ba năm 1976-1978, huyện đoàn đã thành lập và củng cố 9 xã đoàn, 4 chi đoàn xã và 15 chi đoàn khối cơ quan đơn vị. Tháng 2.1977, Huyện Đoàn tổ chức đại hội. Đặc biệt, ngày 7.8.1978, Huyện ủy Trà My có Chỉ thị số 06-CT/HU “về việc tăng cường công tác thanh vận, chăm lo xây dựng tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh". Thực hiện chủ trương, tuổi trẻ toàn huyện đã có nhiều phong trào hoạt động thiết thực và bước đầu đạt một số kết quả nhất định. Toàn huyện có 400 lượt đoàn viên thanh niên đi xây dựng vùng kinh tế mới và đã khai hoang được 38 ha đất canh tác, trồng rừng được 186.269 cây các loại, tham gia 1350 ngày công lao động xã hội chủ nghĩa;, huy động hơn 1000 lượt thanh niên khám tuyển nghĩa vụ quân sự; tham gia xóa mù chữ cho 2.344 người.

Cùng với Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ huyện từng bước được củng cố về tổ chức bộ máy và tổ chức nhiều phong trào thiết thực. Ban Chấp hành Hội phụ nữ huyện được củng cố lại gồm 17 đồng chí, trong đó thường trực huyện hội gồm 5 đồng chí. Các xã đều thành lập chi hội. Tổng số hội viên toàn huyện đến năm 1978 có 3.881 hội viên trên tổng số 7.783 phụ nữ. Trong hai năm 1977-1978, hưởng ứng các phong trào do Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh phát động, phụ nữ toàn huyện đã đóng góp 4758 ngày công lao động xã hội chủ nghĩa, trồng được 47.107 cây quế và 350 cây sâm, nuôi được 5242 con lợn. Ngoài ra chị em còn vận động tiết kiệm được 1266 lon gạo để tặng cho các gia đình chính sách, góp phần khẳng định vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế- xã hội.

Hoạt động của Hội nông dân có nhiều chuyển biến. Hội Nông dân huyện đã tổ chức cho hội viên học tập nâng cao nhận thức về quyền làm chủ tập thể, đẩy mạnh khai hoang, học tập cách làm ăn mới, nhận thức về quyền và nghĩa vụ công dân, đồng thời thúc đẩy mạnh phong trào lao động sản xuất, cải thiện và nâng cao đời sống. Đến năm 1978, toàn huyện có 43 tổ hợp tác tương trợ lao động tại các xã Trà Nam, Trà Liên, Trà Giáp và Trà Thượng. Thành lập 120 tổ sản xuất với 14.553 nhân khẩu.

Hoạt động của tổ chức công đoàn bước đầu đạt một số kết quả. Đầu năm 1976, công đoàn huyện được thành lập, đến năm 1978 đã củng cố được 18 công đoàn cơ sở. Mặc dù mới thành lập, tổ chức bộ máy chưa hoàn chỉnh, song công đoàn đã đóng vai trò trong việc tổ chức cho đoàn viên học tập các Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, từng bước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.

Thực hiện Nghị quyết 08- NQ/TW, ngày 1.4.1978 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Quyết định 87- QĐ/HĐBT, ngày 25.4.1978 của Hội đồng Bộ trưởng về việc thống nhất đồng tiền Việt Nam trong cả nước, phát hành đồng tiền mới, thu hồi đồng tiền cũ ở cả hai miền Nam- Bắc, Huyện ủy, ủy ban nhân dân huyện đã chỉ đạo công tác thu đổi tiền trên địa bàn huyện diễn ra tốt đẹp, đúng thời gian qui định.

Ngày 21.8.1978, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký quyết định tặng thưởng hai Huân chương Lao động hạng Ba cho cán bộ và nhân dân huyện Trà My vì đã có thành tích xuất sắc trong sản xuất nông nghiệp và làm nghĩa vụ lương thực và thành tích trong việc xóa nạn mù chữ, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Tiếp đến, ngày 6.11.1978, Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký quyết định tuyên dương danh hiệu anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho Lực lượng vũ trang huyện Trà My và xã Trà Mai vì đã có thành tích xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trước đó, ngày 30.10.1978, cá nhân đồng chí Hồ Thanh Lâm (quê xã Trà Giáp) được Chủ tịch nước ký quyết định tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân vì đồng chí đã có nhiều thành tích xuất sắc trong chiến đấu và công tác. Những phần thưởng cao quý đó là nguồn động viên cho cán bộ và nhân dân huyện Trà My hăng hái xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.

Để thuận lợi cho công tác quản lý và thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội ở những xã vùng giáp ranh với đồng bằng, ngày 13. 3.1979, Hội đồng Bộ trưởng có Quyết định số 111- QĐ/HĐBT về việc chuyển xã Trà Thượng thuộc Trà My về huyện Tam Kỳ(1).

Một thử thách lớn đối với đất nước ta vào cuối năm 1978, đầu năm 1979 là chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra. Trước tình hình đó, hưởng ứng Lệnh Tổng động viên của Chủ tịch nước, Huyện ủy, Ủy ban Nhân dân huyện đã tổ chức mít tinh phản đối bọn xâm lược, đồng thời kêu gọi cán bộ, đảng viên và nhân dân nêu cao tinh thần yêu nước, sẳn sàng chi viện sức người, sức của cho chiến trường; đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, ổn định an ninh trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn huyện.

Nhìn chung, trong hơn hai năm (1977-1978) triển khai thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VIII, tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng và công tác xây dựng Đảng trên địa bàn có nhiều khởi sắc, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, các phong tục tập quán lạc hậu được xóa bỏ, phong trào xóa mù chữ được nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ. Những thành tựu bước đầu của Trà My trong những năm 1976-1978 là tiền đề để địa phương tiếp tục phát triển các mặt trong những năm tiếp theo.

2. TỔ CHỨC THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI (5.1979- 9.1986)

Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương về tổ chức Đại hội Đảng bộ các cấp, tiến đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, từ ngày 11 đến ngày 15.5.1979, tại Trường Đảng huyện, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ IX, nhiệm kỳ 1979-1982 được tiến hành. Dự Đại hội có 172 đại biểu chính thức của 11 Đảng bộ và 25 chi bộ trực thuộc Đảng bộ huyện.

Về dự và chỉ đạo Đại hội có đồng chí Hồ Nghinh- ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy; đồng chí Hoàng Minh Thắng- Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh.

Đại hội đã tập trung thảo luận, đánh giá về tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VIII, đồng thời bàn phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ (1979-1982). Về phương hướng nhiệm vụ, Đại hội nêu rõ:

- Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, phấn đấu đạt và vượt chỉ tiêu lương thực; phát huy thế mạnh của miền núi trong việc trồng và khai thác lâm sản xuất khẩu, từng bước xây dựng cơ sở vật chất chủ nghĩa xã hội; củng cố an ninh, quốc phòng, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội.

- Xây dựng Đảng vững mạnh trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức; củng cố và tăng cường lực lượng cho bộ máy chính quyền, mặt trận và các đoàn thể các cấp để đủ năng lực gánh vác nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Trà My khóa IX, nhiệm kỳ 1979-1982 gồm 26 đồng chí, trong đó có 2 đồng chí dự khuyết. Bầu Ban Thường vụ Huyện uỷ gồm 6 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Ngọc Quyến được bầu lại làm Bí thư, đồng chí Đỗ Kim Bân được bầu làm Phó Bí thư Huyện ủy; bầu 20 đại biểu chính thức (trong đó có 3 đại biểu được Tỉnh uỷ giới thiệu về) đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng lần thứ XII.

Ngay sau Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ IX, Huyện uỷ Trà My tập trung tổ chức thành công cuộc bầu cử Hội đồng Nhân dân cấp huyện và cấp xã khoá II. Thắng lợi của cuộc bầu cử lần này càng phản ánh quyền làm chủ của nhân dân được phát huy, hệ thống chính quyền được củng cố một bước.

Thực hiện Chỉ thị 72- CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Chỉ thị 43-CT/TU của Tỉnh uỷ Quảng Nam -Đà Nẵng về "Tăng cường công tác phát triển Đảng, kiện toàn củng cố tổ chức Đảng", Huyện uỷ đã tổ chức học tập quán triệt, đồng thời tổ chức sinh hoạt trong Đảng nhằm kiểm điểm tự phê bình và phê bình trong Đảng bộ.

Ngày 28.12.1979, Huyện ủy tổ chức hội nghị sơ kết nhằm đánh giá công tác xây dựng Đảng trong thời gian qua. Hội nghị đã đánh giá tình hình đội ngũ đảng viên, nghiêm khắc phê phán những khuyết điểm. Về phương hướng khắc phục tồn tại, Hội nghị đề ra những biện pháp như xác định rõ vai trò vị trí chiến đấu của cán bộ, đảng viên trong tình hình mới; bổ sung chế độ công tác, chế độ quản lý và lề lối làm việc. Trên cơ sở đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, mỗi đảng viên đều phải làm bản kiểm điểm và được quần chúng góp ý. Kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những đảng viên không đủ tư cách, giảm tỉ lệ đảng viên yếu kém, chú ý phát triển đảng viên mới; quy hoạch, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên theo hướng trẻ hoá và có trình độ, năng lực. Có thể nói đây là một cuộc vận động, đợt sinh hoạt chính trị nhằm xây dựng Đảng ngày càng trong sạch vững mạnh.

Qua đợt sinh hoạt, chất lượng tổ chức cơ sở Đảng, đội ngũ đảng viên được nâng lên rõ rệt, các mặt tiêu cực được khắc phục một bước.

Thiết thực kỷ niệm 90 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh( 19.5.1890-19.5.1980), Huyện ủy, Ủy ban Nhân dân huyện đã phát động nhiều phong trào hành động cách mạng như “Ao cá Bác Hồ”, “Vườn cây Bác Hồ”... trong đó nổi lên nhất là việc “Rước đuốc Bác Hồ”. Lễ rước đuốc được tổ chức long trọng tại trung tâm huyện và sau đó được các xã rước về địa phương mình. Lễ rước đuốc đã thu hút đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân tham dự. Đây là hoạt động góp phần nâng cao tinh thần cách mạng, tưởng nhớ về Chủ tịch Hồ Chí Minh- vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, đồng thời đây là dịp để phát động các phong trào thi đua yêu nước, thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội.

Sau gần một năm thực hiện phong trào xây dựng “Vườn cây Bác Hồ”, “Ao cá Bác Hồ” đã có một số kết quả đáng khích lệ, toàn huyện huyện đã đào được hàng trăm ao với diện tích trên 4 ha và đã thả nuôi hàng vạn con cá; trồng hơn 10 ha mía, 2 ha đậu phụng, 3 ha cây ăn quả, 50 ha cỏ phục vụ chăn nuôi. Nổi lên trong phong trào thi đua có xã Trà Liên với phong trào "Làm nhà vườn", xã Trà Tập có phong trào "Đào ao nuôi cá", xã Trà Giang có phong trào “Trồng cây gây rừng", Đoàn thanh niên có phong trào xây dựng “Ao cá Bác Hồ", "Toàn Đoàn tham gia xây dựng Đảng”...

Triển khai thực hiện Chỉ thị 83-CT/TW, ngày 26.11.1979 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IV) về việc phát thẻ đảng viên. Huyện ủy Trà My đã triển khai tốt nhiệm vụ này. Đa số đảng viên trong Đảng bộ đều thấy hết ý nghĩa lớn lao và tầm quan trọng của công tác phát thẻ đảng viên nhằm xây dựng Đảng vững mạnh và trong sạch. Qua gần một năm triển khai thực hiện, đã có 30/34 tổ chức cơ sở Đảng với 767/958 đảng viên trong toàn Đảng bộ được chuẩn y phát thẻ. Đây là cuộc sinh hoạt chính trị sâu sắc của Đảng và ý nghĩa lớn lao, góp phần nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên.

Thực hiện Nghị quyết 32- NQ/TW, ngày 20.11.1980 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng (khóa IV) về công tác tổ chức cán bộ. Huyện ủy quán triệt và chỉ đạo các tổ chức cơ sở Đảng trong toàn Đảng bộ đẩy mạnh thực hiện và bước đầu có chuyển biến, một số cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất hoặc kém năng lực được loại khỏi bộ máy. Chỉ trong 5 tháng đầu năm 1981, toàn Đảng bộ đã xử lý kỷ luật bằng các hình thức là 35 đồng chí, đồng thời kết nạp mới 45 đảng viên.

Chấp hành Chỉ thị 81- CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng ( khóa IV) và các Chỉ thị 30, 31, 39 của Tỉnh uỷ Quảng Nam- Đà Nẵng về đẩy mạnh chống các biểu hiện tiêu cực trong xã hội, Huyện uỷ Trà My đã thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện lấy tên là Ban 79. Nhiệm vụ của Ban là hướng dẫn công tác đấu tranh khắc phục các hiện tượng tiêu cực trong xã hội, tiến hành kiểm kê, kiểm soát, tăng cường quản lý tài sản xã hội chủ nghĩa. Nhờ đó đã hạn chế một bước các hiện tượng tiêu cực trong nội bộ Đảng và ngoài xã hội.

Cuộc vận động chống tiêu cực, tham ô, lãng phí và cuộc vận động xây dựng nếp sống mới được phát động trong nhân dân với nội dung phong phú, thiết thực. Hội phụ nữ với phong trào “Tất cả trên cánh đồng, nương rẫy, công trình thủy lợi”, “Thi đua xây dựng gia đình văn hóa mới, người phụ nữ mới”. Đoàn thanh niên với phong trào thi đua “Ba xung kích làm chủ tập thể” với khẩu hiệu “Đâu cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên”... góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.

Thực hiện Nghị quyết 16 - NQ/TU của Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng “về việc đẩy mạnh, phát triển mọi mặt ở miền núi trong những năm 1981-1985", Huyện ủy đã đề ra một số biện pháp, trong đó chú trọng kiện toàn lại sản xuất nông- lâm nghiệp trên địa bàn, xây dựng thí điểm Hợp tác xã nông - lâm nghiệp I Trà Liên. Hợp tác xã có 34 hộ với 414 nhân khẩu, trong đó có 207 lao động chính và 35 lao động phụ; quản lý 1.700 ha diện tích đất tự nhiên, trong đó đất có khả năng làm nông nghiệp là 508 ha, đất trồng trọt là 66 ha với 35 ha đất trồng lúa nước. Đây là hợp tác xã đầu tiên của huyện.

Từ khi có hợp tác xã, đời sống của xã viên trong hợp tác xã có tăng hơn, lương thực bình quân đầu người đạt gần 400 kg/người/năm gấp 1,5 lần so với trước đó. Tuy vậy, hợp tác xã vẫn còn nhiều mặt hạn chế, cơ sở vật chất chưa đảm bảo cho nhu cầu sản xuất, thiếu kho bãi, sân phơi; đội ngũ cán bộ quản lý hợp tác xã còn non yếu về nhiều mặt...

Thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng( khóa IV) về "Những nhiệm vụ trước mắt của công tác tư tưởng", Huyện uỷ Trà My đã xây dựng Nghị quyết chuyên đề về công tác tư tưởng trên địa bàn huyện. Đây là Nghị quyết quan trọng và là đợt sinh hoạt tư tưởng rộng rãi trong toàn Đảng bộ, động viên cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc vượt qua khó khăn thách thức, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu, kế hoạch đề ra. Có thể nói, việc ban hành Nghị quyết về công tác tư tưởng lúc bấy giờ đã góp phần tạo sự chuyển biến rõ nét về mọi mặt, trong đó thể hiện rõ nét nhất là việc vận động nhân dân tham gia xây dựng chính quyền.

Ngày 26.4.1981, được chọn là ngày bầu cử Quốc hội khoá VII và Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Nam -Đà Nẵng khóa II. Huyện Trà My có trên 98 % cử tri trong huyện hăng hái tham gia bầu cử. Trà My cùng Tiên Phước, Tam Kỳ, Thăng Bình là một đơn vị bầu cử Quốc hội và đã bầu được 3 đại biểu. Vinh dự cho nhân dân huyện Trà My trong cuộc bầu cử Quốc hội khóa VII, ông Trần Văn Mố được tái đắc cử đại biểu Quốc hội.

Tiếp đến, ngày 15.11.1981, bầu cử Hội đồng Nhân dân huyện và xã khoá III, 98,9 % cử tri trong huyện đã thực hiện nghĩa vụ công dân của mình và thể hiện rõ trách nhiệm tham gia xây dựng chính quyền các cấp vững mạnh.

Để thuận lợi trong công tác quản lý và để phù hợp với tình hình phát triển kinh tế- xã hội ở mỗi địa phương, ngày 23.9.1981, Hội đồng Bộ trưởng có Quyết định 79-QĐ/HĐBT về việc chia tách một số đơn vị hành chính. Theo đó, giải thể xã Tiên Trà để thành lập hai đơn vị hành chính mới là thị trấn Trà My và xã Trà Giang. Thị trấn Trà My bao gồm các thôn 1, 2, 3, 6 và 8 của xã Tiên Trà. Xã Trà Giang bao gồm thôn 4 xã Tiên Trà, thôn 3 xã Trà Liên và thôn 4 xã Trà Giác; thành lập xã Trà Tân (gồm có thôn 5 và thôn 7 của xã Trà Giác), đồng thời sáp nhập xã Tiên Minh của huyện Tiên Phước.

Triển khai thực hiện các nhiệm vụ kinh tế- xã hội do đại hội Đảng bộ huyện đề ra trong điều kiện hết sức khó khăn, thách thức. Chiến tranh biên giới phía Nam; nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, hàng hóa phục vụ đời sống nhân dân ngày càng khan hiếm, nhất là lương thực và hàng tiêu dùng thiết yếu... đã tác động đến tư tưởng một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Để giải quyết những khó khăn, Huyện ủy đã kịp thời đề ra một số chủ trương thiết thực như đẩy mạnh, khuyến khích sản xuất, trọng tâm là sản xuất nông- lâm nghiệp, phát động phong trào khai hoang vỡ hóa mở rộng diện tích gieo trồng, giữ vững an ninh trật tự trên địa bàn. Nhờ đó, trong những năm 1981- 1982, tình hình kinh tế- xã hội của địa phương đã đạt được một số kết quả đáng phấn khởi.

Trong sản xuất nông nghiệp, sản lượng lương thực hàng năm đạt trên dưới 13.000 tấn, tăng gần 2 lần so với năm 1976; chăn nuôi cũng được chú ý trên cả hai qui mô nuôi ở gia đình và nuôi tập thể.

Về lâm nghiệp, hàng năm trồng trên 1 triệu cây quế, đạt hơn 200 % so với kế hoạch năm. Do nhu cầu thị trường về quế tăng nên lúc bấy giờ Trà My là một trong những địa phương miền núi có sản lượng quế khai thác xuất khẩu nhiều nhất tỉnh. Đây là điều kiện thuận lợi để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của địa phương, góp phần cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.

Trong công tác định canh định cư, huyện chủ trương lấy xã Trà Liên làm thí điểm cho phong trào định cư. Huyện đã đầu tư xây dựng được 50 ngôi nhà và lập vườn cho 144 hộ, hoàn chỉnh hơn 3 km đường ô tô vào khu định cư, qui hoạch 5 điểm dân cư. Đặc biệt, trong năm 1981, thực hiện Chỉ thị 93- CT/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về việc tạo điều kiện thuận lợi cho việc đón đưa miền xuôi lên xây dựng kinh tế mới, Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện đã tổ chức đón tiếp chu đáo, đã tiếp nhận 240 nhân khẩu, năm 1982 tiếp nhận 65 hộ với 143 nhân khẩu của các huyện Điện Bàn, Thăng Bình, Tam Kỳ lên xây dựng kinh tế mới.

Hoạt động của ngành giao thông vận tải có nhiều cố gắng, vận dụng sáng tạo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm", kết hợp giữa qui hoạch dân cư đi đôi với việc mở rộng mạng lưới giao thông nông thôn. Trong đó đáng chú ý là trong năm 1982, huyện đã đầu tư trên 1 triệu đồng, huy động 38.475 lượt ngày công và đã làm được 38 km đường liên thôn, liên xã; di tu bổ dưỡng 35 km đường ô tô Nước Vin- Trà Giáp, sửa và làm mới 8 cống thoát nước, 15 ngầm qua sông và 4 chiếc cầu treo bắc qua sông lớn, nâng cấp và làm mới 15 km đường ô tô Dương Yên đi Hợp tác xã nông - lâm nghiệp I Trà Liên, góp phần phục vụ việc vận chuyển hàng hóa được thuận lợi.

Ngành bưu điện có nhiều cố gắng phục vụ tốt thông tin liên lạc. Đến năm 1982, ngành đã thành lập 12 trạm bưu tá ở xã, đồng thời khắc phục mọi khó khăn, bảo đảm cung cấp thông tin phục vụ sự chỉ đạo của cấp ủy và chính quyền. Kết quả doanh thu đạt 55.250 đồng, vượt năm 57 % so với kế hoạch, nhận 6.000 bức điện tín, vận chuyển 13.548 tờ báo chí các loại và 25.388 bưu phẩm các loại.

Trên lĩnh vực phân phối lưu thông, thực hiện Nghị quyết 03-NQ/TU, ngày 10.3.1982 của Tỉnh ủy Quảng Nam -Đà Nẵng về việc huy động lương thực, trong hai năm 1981-1982, huyện đã huy động cho Nhà nước hàng chục tấn lương thực, hoàn thành vượt mức chỉ tiêu trên giao.

Ngành thương nghiệp quốc doanh đã có những chuyển biến đáng kể. Mạng lưới thương nghiệp xã hội chủ nghĩa được mở rộng đến các vùng, phương pháp kinh doanh có tiến bộ hơn trước, vừa thu mua lâm thổ sản do nhân dân khai thác, đồng thời đảm bảo cung ứng các mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân, giá trị mua vào đạt 3.745.967 đồng, giá trị bán ra đạt 26.863.000 đồng, vượt 38,12%.

Mạng lưới hợp tác xã mua bán từng bước được hình thành, bước đầu đã áp dụng hình thức trả lương theo doanh số, hoạch toán kinh doanh từng cửa hàng nên có tác động kích thích mở rộng kinh doanh có hiệu quả, chiếm lĩnh thị trường. Tuy nhiên, công tác quản lý còn lỏng lẻo, công tác quản lý thu mua nguồn hàng đạt kết quả chưa cao; tình trạng cân, đong, đo, đếm nhiều lúc không đảm bảo số lượng, giá cả thiếu ổn định, đôi lúc chạy theo lợi nhuận đơn thuần, còn xem nhẹ tính chất phục vụ.

Trên lĩnh vực giáo dục đào tạo, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng (khóa V) về việc đẩy mạnh phát triển giáo dục, năm 1982, Huyện ủy ban hành Chỉ thị 19- CT/HU “về việc bảo đảm hệ thống trường, lớp để con em được đến trường". Sau khi có chủ trương, công tác giáo dục trên địa bàn huyện có chuyển biến mạnh mẽ, chất lượng dạy và học được nâng lên đáng kể, cơ sở vật chất được quan tâm đúng mức. Năm 1982, toàn huyện có 16 trường phổ thông cơ sở với 3.096 em; 1 trường dạy nghề với 230 em, trong đó có 63 em học sinh cấp III; 2 trường bổ túc văn hóa với 143 học viên, chủ yếu ở thị trấn. Chất lượng dạy và học được nâng lên, việc khai giảng đúng thời gian qui định, số lượng học sinh đến trường năm sau tăng hơn năm trước, phong trào thi đua "dạy tốt, học tốt" được chú ý. Tiêu biểu là trường cấp I xã Trà Vân, trường phổ thông cấp I, II thị trấn Trà My và trường cấp I, cấp II xã Trà Tân.

Trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, năm 1982, huyện xây dựng thêm 1 đài truyền thanh cơ sở, tăng 1 đài so với năm 1980; số buổi biểu diễn nghệ thuật và việc chiếu phim phục vụ nhân dân ngày càng tăng, riêng năm 1982, đội chiếu bóng huyện phục vụ 146 buổi, thu hút 240.000 lượt người xem và tổ chức được 5 đợt triển lãm tranh ảnh nghệ thuật.

Một sự kiện nổi bật trên lĩnh vực văn hóa- thể thao trên địa bàn huyện, tháng 3.1982, huyện Trà My đăng cai tổ chức thành công Hội thao các huyện miền núi tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng lần thứ Nhất(1). Với những nỗ lực vượt bật, đoàn Trà My đã giành giải Nhất toàn đoàn.

Công tác bảo vệ bà mẹ trẻ em đạt một số kết quả. Đến năm 1982, toàn huyện có 515 cháu đến nhà trẻ và các trường mẫu giáo, vượt 20 % kế hoạch. Đặc biệt, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cô giáo, cô nuôi dạy trẻ được chú trọng. Việc nuôi dạy, chăm sóc các cháu được thực hiện tốt, song do cơ sở vật chất và dụng cụ vui chơi cho trẻ em ở hầu hết các nhà trẻ đều thiếu nên chất lượng phục vụ so với yêu cầu đạt không cao.

Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ, việc tuyên truyền giáo dục cho đồng bào xây dựng nếp sống văn minh, nhất là việc phòng chống và chữa bệnh được duy trì thường xuyên. Trong năm 1982, ngành đã tổ chức 257 lượt tuyên truyền, thu hút hơn 7.000 lượt người nghe, bảo đảm thực hiện tốt cho 3.123 công trình vệ sinh môi trường, trong đó có 1.082 giếng nước; tổ chức khám và điều trị hơn 11.000 lượt người...

Hoạt động của mặt trận, các hội, đoàn thể nhân dân được duy trì nề nếp và có nhiều phong trào thiết thực. Trong hai năm 1981-1982, Ủy ban Mặt trận huyện đã tổ chức nhiều hoạt động có ý nghĩa thiết thực như vận động hơn 13.000 lượt người, trong đó có 2.272 cán bộ, đảng viên học tập Hiến pháp năm 1980, học tập chính sách dân tộc của Đảng, động viên quần chúng tham gia bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp đạt kết quả, nhiều tổ đã vận động nhân dân tham gia bầu cử đạt tỷ lệ 100%.

Hội Nông dân tập thể được củng cố từ huyện đến xã. Ngày 27.8.1980, Hội Nông dân tập thể huyện tiến hành Đại hội lần thứ I. Hội nông dân tập thể ở các xã được củng cố từng bước. Đến cuối năm 1982, toàn huyện có 162 tổ sản xuất với 1.977 hộ tham gia, kết nạp 5.758 hội viên với 15 tổ chức cơ sở, bước đầu tạo ra những nhân tố mới để từng bước đưa nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể và hưởng ứng cuộc vận động định canh định cư.

Thực hiện Chỉ thị số 113- CT/TW, ngày 14.7.1981 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc tiến hành Đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V của Đảng, từ ngày 10 đến ngày12 . 11 .1981, tại Trường Đảng huyện, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Trà My lần thứ XI (vòng 1) được tiến hành. Đến dự và chỉ đạo Đại hội có đồng chí Phạm Bân- Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh.

Đại hội đã thông qua dự thảo góp ý của đảng viên trong Đảng bộ; ý kiến Đề cương báo cáo về tình hình và nhiệm vụ, góp ý vào bản dự thảo Điều lệ Đảng sửa đổi trình tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V.

Tiếp đến, từ ngày 23 đến ngày 27.9.1982, tại Hội trường Trường Đảng huyện, Đại hội đại biểu Đảng bộ Trà My lần thứ X (vòng 2) được tiến hành. Sau khi đánh giá những kết qủa đạt được cũng như những hạn chế, thiếu sót trên các lĩnh vực hoạt động của Đảng bộ nhiệm kỳ 1979-1982, Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu về phát triển kinh tế- xã hội của huyện trong những năm 1983-1985, trong đó trọng tâm: Đẩy mạnh sản xuất nông- lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và lập lại trật tự trên mặt trận phân phối lưu thông, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.

Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ khóa X, nhiệm kỳ 1983-1985, gồm 31 đồng chí, trong đó có 2 ủy viên dự khuyết; bầu Ban Thường vụ Huyện uỷ gồm 9 đồng chí, đồng chí Nguyễn Ngọc Quyến được bầu lại làm Bí thư, đồng chí Hồ Văn Reo và đồng chí Đỗ Kim Bân được bầu làm Phó Bí thư.

Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp và Nghị quyết Đại hội huyện Đảng bộ lần thứ X, tình hình các mặt của huyện có những chuyển biến căn bản.

Trên lĩnh vực nông nghiệp, việc cấy lúa nước ở vùng thấp, vùng cao bước đầu có hiệu quả, có nơi đẩy mạnh việc chỉ đạo nhân dân cấy lúa hai vụ. Xã Trà Cang xây dựng cánh đồng cao sản trong vụ Đông xuân 1983-1984 đạt kết quả từ 6-8 tấn/ ha /năm, đạt 116,64 % so với Đông- Xuân 1982-1983. Riêng vụ Đông- xuân 1983-1984, năng suất bình quân 32 tạ/ha.

Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp có bước tăng trưởng khá, năm 1983 đạt 90 % kế hoạch năm, năm 1984 mở thêm các ngành: mộc, nề, may mặc, gia công hàng xuất khẩu, bước đầu đem lại hiệu quả.

Phân phối lưu thông có nhiều chuyển biến tốt, vận dụng các chính sách đúng với thực tế trên địa bàn huyện. Năm 1983, huyện mở rộng mạng lưới thương nghiệp quốc doanh, mở thêm nhiều điểm thu mua lương thực ở cả ba vùng.

Trong năm 1983-1984, tuy kinh phí đầu tư cho các công trình phục vụ vùng kinh tế mới còn hạn chế, song với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, huyện đã vận động nhân dân đóng góp xây dựng một số công trình cơ bản như củng cố lại công trình thủy điện Nước Rinh, làm mới đập Kréc.

Công tác định canh định cư và xây dựng vùng kinh tế mới được duy trì tốt, huyện đã đón 366 hộ với 1.497 nhân khẩu của các huyện Núi Thành, Thăng Bình và thị xã Tam Kỳ, đặc biệt là nhân dân ở lòng hồ Phú Ninh. Năm 1984, huyện Trà My tiếp nhận nhân dân lên xây dựng vùng kinh tế mới ở huyện vượt chỉ tiêu trên giao.

Giao thông vận tải có nhiều cố gắng, huyện đã đầu tư mở mới 10 km đường Tắk Pỏ- Tắk Chanh, 21 km đường Tiên Minh- Trà Liên; nâng cấp đường thị trấn Trà My -Trà Giang, tu bổ và mở mới đường Trà Đông- Trà Liên, xây dựng cầu suối Chợ, cầu dây Sông Trường và các cầu khác, đảm bảo kỹ thuật.

Công tác tài chính, phân phối lưu thông có nhiều tiến bộ, tổng thu ngân sách đạt 190,75 % kế hoạch, thương nghiệp đạt 120 % kế hoạch, huy động lương thực tăng 1,4 lần.

Về công tác giáo dục đào tạo được Huyện ủy thường xuyên quan tâm chỉ đạo. Ngày 14.7.1984, Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Nghị quyết 05- NQ/HU về phát triển giáo dục trong những đến. Về kết quả đạt được, Nghị quyết nêu rõ: Từ ngày giải phóng đến nay, lần đầu tiên Trà My đã hình thành mạng lưới trường phổ thông cấp I, bổ túc văn hóa ban đêm ở hầu khắp các bản làng, từ vùng thấp đến vùng rẻo cao hẻo lánh, 4/18 xã có lớp mẫu giáo và trường phổ thông cơ sở cấp I, II. Ở trung tâm huyện có các trường phổ thông trung học, trường dân tộc nội trú, trường bổ túc văn hóa. Đến năm 1984, trên địa bàn huyện, cứ 1 vạn dân có 1.230 người đi học, chiếm tỷ lệ 12,3 %...góp phần xóa mù chữ cho cán bộ, đảng viên và một bộ phận nhân dân trong độ tuổi qui định, làm thay đổi cơ bản bộ mặt của huyện, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, củng cố an ninh quốc phòng, đẩy lùi một bước sự nghèo nàn, lạc hậu, thúc đẩy công cuộc định canh định cư và tạo ra tiền đề phát triển trong tương lai.

Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân tiếp tục được duy trì. Việc khám chữa bệnh cho nhân dân, nhất là các xã vùng sâu, vùng xa được thực hiện tốt, góp phần khống chế các dịch bệnh như sốt rét, sốt xuất huyết... hoành hành.

Về văn hóa thông tin, huyện đã xây dựng thêm một số trạm truyền thanh, nâng tổng số trạm truyền thanh xã lên 13 trạm. Nội dung thông tin truyền truyền được cải tiến, nhất là việc xây dựng được tờ tin của Đảng bộ huyện, góp phần đưa các chủ trương của tỉnh, huyện đến cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Công tác xây dựng Đảng được chú trọng. Đảng bộ huyện thường xuyên chỉ đạo việc mở các lớp bồi dưỡng về quan điểm lập trường và đã mở 12 lớp chuyên đề về nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên. Công tác kiểm tra, xét kỷ luật đảng viên được nghiêm minh, đã xem xét và giải quyết 67 vụ kỷ luật. Tuy vậy, đối với công tác phát triển đảng viên mới, tuy có quan tâm chỉ đạo nhưng chưa đạt kết quả, nhiều thôn còn trắng đảng viên. Năm 1983 chỉ phát triển được 64 đảng viên.

Thực hiện Chỉ thị 24, ngày 29.9.1983 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa V) về xây dựng các Đảng bộ huyện vững mạnh gắn với việc xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện, Huyện uỷ đã đề ra chương trình hành động với một số nội dung trọng tâm như:

- Gắn nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, củng cố an ninh quốc phòng với nhiệm vụ xây dựng huyện vững mạnh về mọi mặt. Trên cơ sở rà soát quy hoạch tổng thể và quy hoạch ngành, hình thành các vùng chuyên canh cây công nghiệp, tiến hành củng cố uỷ ban nhân dân các xã, các ban, phòng chuyên môn, sắp xếp đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, thị trấn, ngành.

- Tiến hành xây dựng kế hoạch cho cơ sở khai thác và phát huy khả năng của mình. Đặc biệt là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cấp cơ sở, để cơ sở có điều kiện đi lên, tạo niềm tin cho nhân dân đối với Đảng.

Ngày 1.12.1983, Hội đồng Bộ trưởng có Quyết định số 141-HĐBT, chia xã Trà Leng thành hai xã là Trà Leng và Trà Dơn; chia xã Trà Đốc thành hai xã là Trà Đốc và Trà Bui; chia xã Tiên Minh thành hai xã là Trà Dương và Trà Đông.

Tháng 3.1984, Tỉnh uỷ quyết định tăng cường đồng chí Bùi Hồng Việt, Tỉnh uỷ viên, về làm Bí thư Huyện uỷ thay cho đồng chí Nguyễn Ngọc Quyến được điều về công tác ở tỉnh.

Ngày 20.5.1984, Huyện uỷ Trà My đã chỉ đạo thành công cuộc bầu cử Hội dồng Nhân dân huyện và xã khoá IV.

Ngày 25.12.1984, Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Chỉ thị 04- CT-HU về việc lập lại trật tự trong qui hoạch thị trấn huyện lị Trà My phù hợp với yêu cầu và đúng qui định. Chỉ thị nêu ra 6 qui định cụ thể trong việc lập thủ tục cấp phép sử dụng đất, vị trí qui mô các công trình và luận chứng kinh tế của công trình, đồng thời giao cho Phòng xây dựng, Ban kiến thiết dân dụng, Phòng tài chính, Ngân hàng Nhà nước huyện có kế hoạch kiểm tra, đôn đốc cụ thể. Từ sau khi có Chỉ thị, công tác qui hoạch, sử dụng đất trên địa bàn huyện, nhất là khu vực thị trấn ngày càng đi vào nề nếp, hạn chế được tình trạng sử dụng đất không đúng mục đích.

Thực hiện Nghị quyết số 25- NQ/TU, ngày 14.8.1985 của Tỉnh uỷ Quảng Nam - Đà Nẵng về xây dựng và phát triển miền núi(1), Huyện ủy Trà My đã đề ra một số giải pháp cụ thể về phát triển kinh tế xã hội trong những năm 1986-1990, trong đó nhấn mạnh: ra sức nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện và sức chiến đấu của Đảng bộ, chi bộ, xây dựng đội ngũ đảng viên, xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao trình độ đồng đều gắn với xây dựng Đảng bộ huyện vững mạnh. Đồng thời phải khẩn trương qui hoạch, đào tạo, tăng cường cán bộ để xây dựng đội ngũ cán bộ từ huyện đến cơ sở, có đội ngũ kế thừa đáp ứng cho nhiệm vụ chính trị trước mắt và lâu dài.

Để thiết lập quan hệ sản xuất nông lâm nghiệp ở miền núi theo hình thức tập đoàn sản xuất, ngày 15.10.1985, Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Chỉ thị 31- CT/HU về việc đẩy mạnh xây dựng tập đoàn sản xuất nông lâm nghiệp trong toàn huyện. Nội dung Chỉ thị nêu rõ một số biện pháp cụ thể như sau: Đối với cấp ủy Đảng ở cơ sở phải lãnh đạo và tuyên truyền giáo dục làm cho mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức đúng đắn chủ trương về xây dựng tập đoàn sản xuất của Đảng. Đối với mặt trận và các đoàn thể quần chúng phải gắn chặt các hoạt động của mình theo từng tập đoàn sản xuất. Ban Tuyên huấn, Phòng Văn hóa- thông tin, Đài Truyền thanh huyện, cùng Hội Nông dân tập thể nghiên cứu soạn thảo chương trình, kế hoạch để tuyên truyền sâu rộng cuộc vận động. Ban cải tạo nông lâm nghiệp cùng các cơ quan chức năng như Phòng Nông- lâm nghiệp, Ban Xây dựng vùng kinh tế mới, Phòng Định canh- định cư, Phòng Kế hoạch, Phòng Qui hoạch, Phòng Tài chính, Ngân hàng Nhà nước huyện... cần hướng dẫn nghiệp vụ để xây dựng tập đoàn.

Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 95 ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 29.4.1985, Ban Thường vụ Huyện ủy có Kế hoạch hướng dẫn đợt sinh hoạt chính trị trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đây là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng và góp phần nâng cao nhân thức chính trị tư tưởng, nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình trong cán bộ, đảng viên và quần chúng.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa V) về “xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện đúng chế độ hoạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa”, tháng 9.1985, Huyện uỷ đề ra Chương trình hành động, trong đó tập trung vào một số nhiệm vụ cấp bách và một số vấn đề liên quan đến công tác cán bộ, yêu cầu tiến hành sắp xếp lại sản xuất và quản lý các ngành và địa phương. Cơ cấu kinh tế của huyện được tiếp tục xác định là lâm- nông- công nghiệp.

Có thể nói rằng, sau 5 năm thực hiện kế hoạch Nhà nước 1981-1985, với những nỗ lực không ngừng của Đảng bộ và nhân dân trong huyện, các chỉ tiêu do Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện đề ra đều đạt và vượt kế hoạch, nhiều phong trào thi đua lao động sản xuất được dấy lên mạnh mẽ như phong trào làm đường giao thông nông thôn; phong trào làm ruộng nước, làm ruộng bậc thang ở các xã vùng cao, phong trào xóa mù chữ...

Kết quả, về nông- lâm nghiệp, toàn huyện trồng được 1,4 triệu cây quế, gần 1.000 ha trẩu, trong đó có 500 ha tập trung, năm 1985 phát triển cây trẩu đạt 232 % kế hoạch; tiến hành thí điểm việc giao 4.000 ha đất, giao rừng cho các đơn vị, địa phương; khai thác 15.000m3 gỗ, 1.651 tấn quế các loại và hàng trăm tấn dược liệu và lâm thổ sản khác, gấp 1,21 lần chỉ tiêu đề ra; hàng năm ươm được 100.000 cây quế con, thực hiện việc giao 4.200 ha rừng;

Về chăn nuôi, số lượng đàn trâu phát triển đạt 123 %, đàn bò đạt 108 %.

Tiểu thủ công nghiệp được khôi phục và phát triển, nghề thủ công kéo sợi dệt vải cổ truyền của đồng bào xã Trà Nam, Trà Linh, Trà Cang ở vùng cao được duy trì, tổng giá trị ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp hàng năm đều đạt chỉ tiêu, tăng từ 390.000 đồng năm 1982 lên 3.900.000 đồng năm 1985, gấp 10 lần.

Phân phối lưu thông có nhiều cố gắng, doanh thu của ngành thương nghiệp và hợp tác xã hàng năm đều vượt chỉ tiêu trên giao, tăng từ 6-7 lần so với năm 1982.

Công tác định canh định cư, xây dựng vùng kinh tế mới được tiến hành thường xuyên, đã có 5/15 xã với 267 hộ, 3.368 nhân khẩu đã được định canh định cư; có 10/15 xã với 3.018 hộ đã định canh.

Kim ngạch xuất khẩu hàng năm đều vượt chỉ tiêu trên giao, năm 1985, kim ngạch xuất khẩu đạt 3 triệu USD-Rúp, đạt 101 % kế hoạch.

Ngành tài chính, ngân hàng có nhiều cố gắng, tổng thu ngân sách trong 3 năm đạt 24 triệu đồng, mỗi năm đều tăng trung bình 6 lần, đặc biệt năm 1985 so với năm 1982 tăng gấp 10,8 lần, trong đó mua công trái xây dựng Tổ quốc đạt 105 %.

Về giao thông, xây dựng, huyện đã tu dưỡng hàng trăm km đường giao thông, đã có 9/18 xã có đường ô tô, 5/18 xã có đường nối với đường trục của huyện, đồng thời đã nâng cấp đường Tắk Chanh- Tắc Pỏ, hoàn thành việc san ủi mặt đường bến xe, mở mới tuyến đường xe khách Trà My- Nước Xa, đầu tư xây dựng một số công trình: thủy điện Nước Oa, phân viện phòng chống sốt rét Tắk Pỏ, xây dựng trường học tại Trà Liên, Trà Đông, trường cấp III thị trấn Trà My, sân bóng đá. Xây dựng một số trụ sở cơ quan: Huyện ủy, Phòng Tài chính, Công ty xuất nhập khẩu; đáng kể huyện đã đầu tư xây dựng Nhày máy thủy điện Nước Oa, có công suất thiết kế đạt bình quân 560.000 KW/h/năm, tổng số vốn đầu tư là 8.164.761 đồng (tính theo giá năm 1985).

Giáo dục đào tạo từng bước phát triển các ngành học, có chú ý đến chất lượng học tập. Đến cuối năm 1985, số học sinh đến lớp tăng hơn 2,13 lần năm 1982, đã đào tạo được 68 cán bộ chủ chốt ở cấp xã.

Công tác y tế có nhiều tiến bộ, đã củng cố trạm xá ở các khu vực, đưa vào hoạt động phân viện Tắk Pỏ, đã khám cho 14.000 lượt người và điều trị trên 4000 người, hạ thấp dần tỷ lệ tử vong.

Công tác tuyển quân và xây dựng lực lượng vũ trang, bán vũ trang thực hiện tốt, an ninh chính trị và trật tự xã hội tuy có lúc phức tạp nhưng đều được giữ vững.

Công tác xây dựng Đảng được tăng cường trên cả ba mặt tư tưởng, tổ chức và chính trị. Công tác xây dựng chính quyền và các đoàn thể được củng cố, nhất là ở cơ sở.

Tuy nhiên, cũng cần thẳng thắn nhìn nhận trong thời kỳ này, trong công tác lãnh chỉ đạo, Đảng bộ cũng còn một số hạn chế nhất định. Trước hết thể hiện quan điểm lãnh đạo chưa toàn diện, thiếu chặt chẽ. Trong công tác phát triển đảng viên còn xem nhẹ mặt chất lượng.

Trước thực trạng đội ngũ cán bộ miền núi vừa thiếu, khả năng quản lý điều hành còn hạn chế, tháng 6.1986, Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng quyết định tăng cường về huyện Trà My gồm 45 cán bộ. Đây là chủ trương đúng đắn, bước đầu tạo ra tình đoàn kết, tương trợ lẫn nhau giữa cán bộ Kinh và cán bộ dân tộc. Sau khi có quyết định, Huyện ủy đã tập trung lãnh đạo việc tiếp nhận, phân công số cán bộ được tăng cường về các xã. Sau hơn một năm thực hiện, số cán bộ tăng cường đã bước đầu giúp cho cán bộ tại chỗ nắm rõ lề lối, phương pháp lãnh đạo các mặt ở địa phương. Tuy nhiên, vẫn còn một số địa phương chưa sử dụng, phát huy tốt số cán bộ tăng cường, gây ảnh hưởng đến phong trào của địa phương.

Thực hiện Chỉ thị 79- CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa V) và Hướng dẫn 46 của Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng về tự phê bình và phê bình, khắc phục khuyết điểm, ngày 12.7.1986, Huyện ủy Trà My tổ chức hội nghị bàn biện pháp khắc phục một số khuyết điểm. Trong đó nêu rõ: trình độ, năng lực một số cán bộ, đảng viên ở huyện, nhất là ở xã còn hạn chế, thiếu nhiệt tình, thiếu ý chí cách mạng tiến công, tư tưởng tạm bợ, giản đơn, bảo thủ còn nặng; việc điều hành của các cấp ủy từ huyện đến cơ sở chưa kịp thời, chưa sử dụng hết chức năng của các cơ quan tham mưu; công tác kiểm tra chưa thực hiện tốt, lề lối làm việc chưa thực hiện đúng qui chế, chưa theo đúng chương trình, kế hoạch đề ra. Hội nghị đã đề ra một số giải pháp khắc phục những khuyết điểm của Đảng bộ nhằm xây dựng và chỉnh đốn Đảng, góp phần xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Đánh giá nghiêm túc những mặt làm được và chưa làm được của Đảng bộ trong thời kỳ 1975-1986 nói chung và thời kỳ 1979-1986 nói riêng là cơ sở cho việc Đảng bộ vận dụng đường lối chính sách của Đảng tốt hơn và có những chủ trương, biện pháp phù hợp hơn trong thời kỳ mới.

1. TRIỂN KHAI THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG (9.1986 - 3.1991)

Bước vào năm 1986, cùng với thực trạng chung của cả nước, tình hình kinh tế- xã hội của huyện Trà My tuy đạt nhiều kết quả, song nhìn chung còn gặp không ít khó khăn về nhiều mặt, đòi hỏi toàn Đảng bộ, toàn quân và nhân dân các dân tộc trong huyện không ngừng phấn đấu về mọi mặt, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội đã đề ra.

Thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tổ chức Đại hội các cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, từ ngày 12 đến ngày 16.9.1986, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Trà My lần thứ XI, nhiệm kỳ 1986-1988 được tổ chức tại hội trường Trường Đảng huyện. Tham dự đại hội có 254 đại biểu đại diện cho đảng viên của toàn Đảng bộ. Về dự và chỉ đạo đại hội có đồng chí Lê Thế Tiệm- Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Giám đốc Công an tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng.

Đại hội đã tiến hành tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ X, nhiệm kỳ 1983-1985; thảo luận, đóng góp ý kiến vào dự thảo các văn kiện Đại hội VI của Đảng và đề ra phương hướng, nhiệm vụ của Đảng bộ nhiệm kỳ 1986-1988 là: "Đề cao truyền thống đoàn kết, ý chí cách mạng tiến công, tinh thần tự lực tự cường, phát huy và thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, dấy lên phong trào thi đua lao động xã hội chủ nghĩa sôi nổi, liên tục trong toàn huyện để khắc phục khó khăn, khuyết điểm, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược mà Đảng đã đề ra. Trước mắt tập trung giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trong cơ cấu của từng vùng, từng xã để khai thác tốt nhất khả năng, tiềm năng về lao động, đất đai, tai nguyên và cơ sở vật chất tạo ra tiền đề vững chắc để phát triển sản xuất và cải thiện đời sống nhân dân, đảm bảo an ninh chính trị và quốc phòng, phấn đấu xây dựng Đảng bộ vững mạnh về mọi mặt và đạt danh hiệu Trong sạch vững mạnh trong những năm đến"(1).

Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XI gồm 45 đồng chí, trong đó có 10 uỷ viên dự khuyết; bầu Ban Thường vụ Huyện ủy gồm 11 đồng chí. Đồng chí Hồ Văn Reo được bầu làm Bí thư, các đồng chí Đỗ Kim Bân, Nguyễn Chiến Hữu được bầu làm Phó Bí thư Huyện uỷ. Đến cuối năm 1986, đồng chí Đỗ Kim Bân nghỉ hưu, đồng chí Trần Lợi được bầu làm Phó Bí thư Huyện ủy.

Từ ngày 15 đến ngày 18.12.1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp tại thủ đô Hà Nội. Đây là Đại hội mở ra thời kỳ đổi mới đất nước, đưa nước ta bước vào thời kỳ phát triển mới có tính chất bước ngoặt.

Thực hiện Quyết định 162- QĐ/HĐBT, ngày 3.12.1986, Hội đồng Bộ trưởng, Huyện uỷ Trà My đã chỉ đạo thành công việc chia Trà Mai được chia thành đơn vị hành chính là xã: Trà Mai và Trà Don.

Quán triệt quan điểm đổi mới của Đảng và thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XI, Đảng bộ huyện đã lãnh đạo nhân dân trong huyện vượt qua những khó khăn thử thách và bước đầu giành được những kết quả quan trọng trên lĩnh vực kinh tế- xã hội.

Về sản xuất nông nghiệp, năm 1987, huyện đầu tư xây dựng một số công trình thủy lợi như đập Xiêm Rang (Trà Pui), đập thôn 3, xã Trà Cang; đập Suối Đá, sửa chữa đập Kréc, nâng cao hồ Nước Rinh, thi công công trình thủy lợi Nước Ron...góp phần phục vụ tưới tiêu cho 1230 ha và nâng cao năng suất, sản lượng lương thực trong năm là 13.008 tấn, đạt 100 % kế hoạch.

Về chăn nuôi, trên địa bàn huyện bước đầu phát triển đàn lợn lai kinh tế ở Trạm kỹ thuật nông nghiệp, cung cấp 110 con lợn giống F1 cho nông dân các xã vùng thấp. Các xã vùng trung, vùng cao bước đầu thực hiện chăn nuôi có chuồng trại. Về lâm nghiệp, huyện thực hiện phương án tổ chức lại nghề rừng, thành lập Liên hiệp xí nghiệp Nông- lâm- công nghiệp Trà My

Về công tác định canh định cư, huyện đầu tư xây dựng một số công trình cơ bản phục vụ cho các cụm dân cư khu kinh tế mới như xây dựng trường học ở xã Trà Tân, Trà Pui, xây dựng trạm y tế ở xã Trà Dương, Trà Giáp, khảo sát cầu treo Trà Đông, Trà Giang. Huyện hợp đồng với Đoàn địa chất 503,206 để khảo sát tham dò mỏ đá hoa cương ở Trà Dương, mỏ thiếc ở Hòn Bà (Trà Giang) và khảo sát công trình thủy điện Nước Là (Trà Mai).

Trên lĩnh vực văn hóa- xã hội có nhiều chuyển biến, trong đó nổi lên nhất là huyện đã đăng cai tổ chức thành công Hội thao mùa xuân các huyện miền núi lần thứ VI. Đây là Hội thao được chuẩn bị chu đáo về mọi mặt, tạo ra những nét mới và gây nhiều ấn tượng so với những lần trước đó. Kết quả, đoàn Trà My đạt giải nhất toàn đoàn.

Tình hình an ninh trật tự được giữ vững, công an, huyện đội đã tổ chức nhiều đợt truy quét bọn khai thác tài nguyên khoáng sản bất hợp pháp, kịp thời điều tra xử lý các vụ án phức tạp, trong đó nổi lên là việc xử lý vụ án giết người ở Trà Tân. Bên cạnh đó, huyện còn tổ chức các cuộc họp liên kết với các huyện Đắk Lay, Kon Plong, tỉnh Kon Tum; các huyện Sơn Hà, Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi để truy quét bọn tội phạm.

Đặc biệt, ngày 7.3.1987, Huyện ủy ban hành Chỉ thị 13-CT/HU về việc ngăn chặn, dập tắt và truy tìm những luận điệu phao tin đồn nhảm, kích động của kẻ xấu. Đây là chủ trương kịp thời nhằm tuyên truyền, giáo dục cho quần chúng hiểu được âm mưu phá hoại nhiều mặt của kẻ thù, tăng cường cảnh giác cách mạng, đồng thời chỉ đạo đẩy mạnh sản xuất, đấu tranh ngăn chặn các tập tục lạc hậu nảy sinh; dập tắt các dịch bệnh xảy ra ở các vùng; kiểm tra, xử lý thích đáng bọn đầu cơ buôn lậu, phá giá thị trường.

Hoạt động của các ngành thanh tra, viện kiểm sát nhân dân, toà án nhân dân, tư pháp của huyện được duy trì thường xuyên, trong đó nổi lên nhất là tuyên truyền Luật hôn nhân- gia đình, kiện toàn 42 cán bộ tư pháp xã, ngành tòa án thụ lý 15 vụ án; ngành thanh tra bước đầu thực hiện lịch tiếp dân, giải quyết 14 đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân, xây dựng 23 ban thanh tra cơ sở

Về công tác xây dựng Đảng, một nét mới của huyện là đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong trường học. Đây là chủ trương nhạy bén, kịp thời, góp phần xóa tình trạng “trắng" đảng viên ở một số trường học. Kết quả năm 1987, các trường cấp I, II thị trấn Trà My, trường cấp I-II xã Trà Linh, trường cấp I xã Trà Giang, Trà Tập và Trà Đốc đã phát triển đảng viên mới.

Công tác củng cố chính quyền các cấp được chú trọng. Đặc biệt, ngày 19.7.1987, Huyện ủy đã lãnh đạo thành công bầu cử Quốc hội khóa VIII, bầu cử hội đồng nhân dân các cấp. Toàn huyện có 19 đơn vị bầu cử với 105 tổ bầu cử. Kết thúc cuộc bầu cử, toàn huyện có 99,40 % cử tri tham gia bầu cử và đã bầu 47 vị đại biểu Hội đồng Nhân dân huyện khoá IV, 489 vị đại biểu Hội đồng Nhân dân xã.

Một tin vui đến với Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Trà My là ngày 12.5.1987, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký quyết định tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba cho cán bộ và nhân dân huyện Trà My vì đã có thành tích xuất sắc trong các mặt công tác, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đây là niềm cổ vũ lớn lao để Đảng bộ và nhân dân huyện Trà My vượt qua khó khăn, tiếp tục giành được thành tựu lớn hơn nữa trong công cuộc đổi mới do Đại hội VI của Đảng đề ra.

Nhân sự kiện báo Nhân Dân (ngày 16.7.1987) đăng bài "Những việc cần làm ngay" của tác giả N.V.L (tức Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh) và trên tinh thần Chỉ thị số 10- CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam- Đà Nẵng về việc chống tiêu cực, ngày 20. 7.1987, Ban Thường vụ Huyện ủy Trà My ban hành Chỉ thị số 22- CT/HU về việc hưởng ứng "Những việc cần làm ngay". Huyện ủy đã chỉ đạo tiến hành thanh tra lĩnh vực kinh tế xã hội, giải quyết thư khiếu nại, tố cáo của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Qua thanh tra 7 đơn vị kinh tế, bước đầu giải quyết, xử lý và thu hồi tài sản thất thoát với 1.183.290 đồng, xử lý kỷ luật 28 đảng viên, trong đó có 8 đảng viên bị khai trừ, 12 đảng viên bị cảnh cáo và 4 đảng viên bị khiển trách. Bên cạnh đó, Huyện ủy đã đưa đi đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị cho 6 đồng chí và tích cực tổ chức triển khai học tập các chuyên đề nghị quyết Đại hội VI của Đảng cho đội ngũ cán bộ cấp huyện và cơ sở.

Cùng với những biện pháp chống tiêu cực trong Đảng, cơ quan Nhà nước, Huyện ủy còn ban hành chỉ thị về nghiêm cấm cư trú buôn bán hàng quốc cấm, góp phần đẩy lùi các tệ nạn xã hội, làm trong sạch địa bàn, giữ vững an ninh và trật tự an toàn xã hội.

Triển khai Chỉ thị 14-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) “về việc Củng cố tổ chức, phát huy tác dụng tích cực của Hội Chữ thập đỏ", Huyện ủy Trà My đã kịp thời triển khai đến các tổ chức cơ sở Đảng, mặt trận, đoàn thể nhân dân với phương châm “Nhà nhà làm việc thiện, người người làm việc thiện, ngành ngành làm việc thiện", góp phần giúp đỡ những người khó khăn, gặp hoạn nạn.

Ngày 30.3.1988, Huyện ủy tổ chức Hội nghị tổng kết việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng trên địa bàn huyện trong giai đoạn 1976-1988 và đề ra phương hướng, nhiệm vụ trong thời gian đến. Về kết quả đạt được, Hội nghị nêu rõ: dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, đồng bào các dân tộc thiểu số huyện Trà My giữ vững và phát huy truyền thống cách mạng, đoàn kết, tin tưởng vào Đảng. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện, công tác bồi dưỡng trình độ lý luận, chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ được quan tâm đúng mức, trên 90 % cấp ủy, bí thư các cơ sở Đảng ở huyện, 85 % ở cấp xã được đào tạo, bồi dưỡng.

Tuy nhiên, Hội nghị cũng nêu lên một số mặt tồn tại sau: đời sống của nhân dân vẫn còn nhiều khó khăn, cơ sở vật chất chưa được đầu tư đúng mức, tỷ lệ tăng dân số, tỷ lệ mù chữ còn khá cao, công tác lãnh chỉ đạo còn chừng mực.

Từ kết quả đạt được và những tồn tại, Hội nghị đề ra phương hướng nhiệm vụ thực hiện chính sách dân tộc của Đảng trong thời gian đến với mục tiêu khai thác tối đa tiềm năng, thế mạnh của huyện, phấn đấu đưa huyện trở thành một trong những huyện miền núi của tỉnh phát triển về mọi mặt, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên.

Ngày 16.4.1988, Hội đồng Bộ trưởng có Quyết định số 63- HĐBT, chia xã Trà Liên thành hai xã là Trà Nú và xã Trà Cót. Huyện uỷ Trà My đã tập trung chỉ đạo thực hiện tốt việc chia xã lần này.

Cũng trong năm 1988, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã tổ chức biên soạn và phát hành tập sách Những sự kiện Lịch sử huyện Trà My 1945-1975. Đây là tập sách ghi lại những sự kiện tiêu biểu của Đảng bộ, quân và dân Trà My trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, góp phần vào công tác giáo dục truyền thống cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ.

Nhìn chung, sau hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện khóa XI (1986-1988), tình hình các mặt của huyện có nhiều chuyển biến, trong đó nổi lên nhất là: huyện đã xây dựng mô hình sản xuất mới theo hướng nông- lâm- công nghiệp kết hợp, mở rộng kinh doanh tổng hợp, thay đổi cơ cấu đầu tư, tập trung các công trình trọng điểm như thủy điện Nước Oa, đường Trà My- Tắk Pỏ, bệnh xá, trường học...thu hút vốn đầu tư hơn 60 % tổng ngân sách huyện.

Việc giao đất giao rừng, xây dựng làng định canh, định cư theo tinh thần Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (khoá VI) được thực hiện có hiệu quả. Phong trào “Trồng cây gây rừng” được nhân dân hưởng ứng.

Trong phân phối lưu thông, sản lượng lương thực được huy động cho Nhà nước, tổng kim ngạch xuất khẩu đều đạt kế hoạch, vốn lưu động tăng hai lần và tiền mặt quay vòng tăng 3,5 lần so với năm 1987, cân đối được thu chi ngân sách.

Công tác xây dựng Đảng được chú trọng, năng lực lãnh đạo của Đảng được tăng cường, công tác củng cố bộ máy tổ chức, bố trí sắp xếp sử dụng đội ngũ cán bộ hợp lý, kiện toàn được các tổ chức cơ sở Đảng, xây dựng đội ngũ đảng viên vững chắc.

Những kết quả bước đầu này đã tạo động lực để Đảng bộ, quân và dân huyện Trà My tiếp tục phát huy trong những năm đến, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới của Đảng.

Thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc mở Đại hội Đảng bộ các cấp, từ ngày 23 đến ngày 25.3.1989, tại hội trường Trường Đảng huyện, Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XII, nhiệm kỳ 1989-1990 được tiến hành. Tham dự đại hội có 241 đại biểu chính thức của 55 tổ chức cơ sở Đảng trong toàn huyện. Về dự và chỉ đạo đại hội có đồng chí Lê Thế Tiệm- ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Giám đốc Công an tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.

Đại hội đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XI và đề ra phương hướng nhiệm vụ của Đảng bộ huyện nhiệm kỳ 1989-1990. Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XII, nhiệm kỳ 1989-1990 gồm 35 đồng chí, trong đó có 2 đồng chí là uỷ viên dự khuyết; bầu Ban Thường vụ Huyện ủy gồm 9 đồng chí. Đồng chí Hồ Văn Reo được bầu lại làm Bí thư, các đồng chí Nguyễn Chiến Hữu, Trần Lợi được bầu làm Phó Bí thư Huyện uỷ.

Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XII và các Nghị quyết, chỉ thị của Tỉnh uỷ, của Trung ương trong điều kiện tình hình trong nước và thế giới diễn biến phức tạp, nhất là hệ thống các nước xã hội nghĩa ở Đông Âu lâm vào khủng hoảng cao độ, trong khi đó tình hình thiên tai liên tiếp xảy ra trên địa bàn tỉnh nói chung và địa bàn huyện nói riêng tác động mạnh mẽ đến đời sống của nhân dân. Song, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Trà My từng bước vượt qua khó khăn, thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng.

Ngày 19.11.1989 được qui định là ngày bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 1989-1994. Huyện ủy đã lãnh đạo tốt công tác chuẩn bị bầu cử trên địa bàn huyện. Kết thúc cuộc bầu cử, toàn huyện có 99% cử tri tham gia bầu cử và đã bầu ra 40 đại biểu Hội đồng nhân dân huyện khóa VI.

Thực hiện Chỉ thị 135- CT/HĐBT và Quyết định 240-QĐ/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về công tác bảo vệ an ninh quốc gia, từ cuối năm 1989, đầu năm 1990, Trà My đã triển khai thực hiện và bước đầu đã lập lại trật tự kỷ cương trên địa bàn. Đặc biệt, ý thức cảnh giác cách mạng trong toàn dân và lực lượng vũ trang được tăng cường, phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc được nhân rộng.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng( khóa VI) về đổi mới công tác vận động quần chúng, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc từ huyện đến cơ sở thường xuyên phối hợp với các tổ chức thành viên tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc, đồng bào tôn giáo thi đua lao động sản xuất và chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Mối quan hệ giữa Mặt trận và chính quyền ngày càng chặt chẽ, thiết thực. Trong đó thể hiện rõ nhất là các ý kiến đóng góp của ủy ban mặt trận các cấp thông qua các kỳ họp hội đồng nhân dân các cấp.

Hoạt động của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh đã có nhiều cố gắng. Năm 1987, huyện Đoàn tập trung chỉ đạo các cấp bộ đoàn tiến hành đại hội hết nhiệm kỳ gắn với việc động viên tuổi trẻ xung kích thực hiện 3 chương trình kinh tế- xã hội, đẩy mạnh thực hiện các phong trào “Dân số - kế hoạch hóa gia đình”, “Thanh niên xung kích trên mặt trận an ninh quốc phòng”...

Hoạt động của Hội liên hiệp phụ nữ huyện được đổi mới cả nội dung và phương thức vận động, trong đó nổi bật nhất là các phong trào: “Người phụ nữ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình”, “Phụ nữ nuôi dạy con tốt, hạn chế trẻ em suy dinh dưỡng, trẻ em bỏ học...”

Hội nông dân ngày càng mở rộng các hình thức tập hợp hội viên và bồi dưỡng cán bộ. Việc xây dựng qũy hội và cuộc vận động nông dân sản xuất giỏi để làm giàu được nông dân hưởng ứng và đem lại một số kết quả thiết thực.

Sau hơn 3 tháng kể từ ngày Hội Cựu Chiến binh Việt Nam được thành lập- ngày 6.12.1989, ngày 27.3.1990, Ban Thường vụ Huyện uỷ Trà My có Quyết định số 27-QĐ/HU về việc thành lập Hội cựu Chiến binh huyện và chỉ định Ban chấp hành lâm thời gồm 11 đồng chí. Đến tháng 12.1990, trên địa bàn huyện có 20/20 xã, thị trấn thành lập hội với 250 hội viên. Ngày 6.12.1990, Hội Cựu chiến binh huyện tổ chức Đại hội lần thứ I.

Thực hiện Chỉ thị số 51- CT/UBND của Uỷ ban Nhân dân tỉnh về công tác chống mù chữ giai đoạn 1990-1995, huyện đã triển khai quán triệt đến cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tại kỳ họp thứ 3, Hội đồng Nhân dân huyện khoá VI đã ra nghị quyết chuyên đề về một số nhiệm vụ cần thiết để thống nhất thực hiện công tác chống mù chữ giai đoạn 1990-2000.

Nét nổi bật trong công tác xây dựng Đảng trong những năm 1989-1990, mặc dù tình hình trong nước và thế giới diễn biến phức tạp, nhất là tình hình Liên xô và các nước Đông Âu đã tác động đến tư tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân, song Đảng bộ đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng và đã đạt được những kết quả khả quan. Huyện đã mở được 8 lớp chuyên đề, 2 lớp đối tượng Đảng, tổ chức 4 buổi thông tin thời sự và triển khai góp ý dự thảo các văn kiện trình Đại hội VII của Đảng. Qua phân loại, toàn huyện có 10 chi bộ, Đảng bộ đạt danh hiệu Trong sạch vững mạnh, trong năm đã kết nạp được 60 đảng viên mới, trong đó có 36 đảng viên người dân tộc, đồng thời làm thủ tục đề nghị tặng huy hiệu 40 năm tuổi Đảng cho 10 đồng chí

Những kết quả mà Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Trà My đạt được trong những năm đầu của công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XII là bước khởi đầu, tạo ra thế và lực mới để vượt qua khó khăn trong những năm đến, phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch đề ra, góp phần xây dựng Trà My ngày càng tươi đẹp.

2. ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, CẢI THIỆN ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT, TINH THẦN CỦA NHÂN DÂN (3.1991-12.1996)

Sau gần 5 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, cả nước nói chung và huyện Trà My nói riêng tuy đã giành được những thành tựu bước đầu rất quan trọng, nhưng lại đứng trước những khó khăn, thử thách mới. Tình hình đó đặt ra cho Đảng bộ huyện phải có sự lãnh đạo nhạy bén, có những giải pháp đồng bộ đề từng bước đưa địa phương trở thành một trong những huyện miền núi có tốc độ phát triển mạnh, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc được nâng cao.

Thực hiện Chỉ thị số 59-CT/TW, ngày 25. 5.1990 của Ban Bí thư Trung ương Đảng( khóa VI) về tổ chức Đại hội Đảng bộ các cấp, từ ngày 27 đến ngày 28.3.1991, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Trà My lần thứ XIII( vòng 1) được tổ chức tại hội trường Trường Đảng huyện. Tham dự đại hội có 220 đại biểu chính thức của 51 tổ chức cơ sở Đảng trong toàn Đảng bộ huyện.

Đại hội đã tiến hành thảo luận, đóng góp ý kiến vào bản dự thảo các văn kiện Đại hội VII của Đảng, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV; thông qua chương trình hành động lập thành tích chào mừng Đại hội Đảng bộ tỉnh và Đại hội VII của Đảng.

Đại hội bầu ra đoàn đại biểu đi dự đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV gồm 15 đại biểu chính thức, 2 đại biểu dự khuyết.

Tiếp đến, từ ngày 15 đến ngày 18.1.1992, tại hội trường Trường Đảng huyện, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Trà My lần thứ XIII (vòng 2), nhiệm kỳ 1991-1995 được tiến hành. Tham dự có 211 đại biểu chính thức được triệu tập.

Về dự và chỉ đạo Đại hội vòng 1 và vòng 2 có đồng chí Lê Quốc Khánh- Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy.

Đại hội đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XII và đề ra phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu của Đảng bộ khóa XIII, nhiệm kỳ 1991-1995 là: Khắc phục khó khăn, ổn định và phát triển kinh tế xã hội, thực hiện cuộc vận động định canh định cư gắn với xây dựng nông thôn miền núi và đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Tổ chức quản lý, khai thác và chế biến hợp lý nguồn tài nguyên rừng để tạo nguồn vốn nhằm từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tăng cường công tác xây dựng Đảng.

Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Trà My khóa XIII gồm 31 đồng chí, bầu Ban Thường vụ Huyện ủy gồm 9 đồng chí. Đồng chí Hồ Văn Reo được bầu lại làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Chiến Hữu và đồng chí Trần Lợi được bầu làm Phó Bí thư Huyện ủy.

Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIII trong điều kiện đất nước còn rất nhiều khó khăn, song Đảng bộ đã lãnh đạo thực hiện các mặt công tác, từng bước vượt qua khó khăn thử thách và đã đạt được một số kết quả quan trọng.

Trước hết, về sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp tiếp tục được đẩy mạnh, công tác chỉ đạo lịch thời vụ, áp dụng giống mới, thâm canh tăng vụ, cải tạo đồng ruộng, làm thuỷ lợi nhỏ được chú trọng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp được tăng cường, trong sản xuất bước đầu có sự chuyển dịch cơ cấu từ thuần nông sang nông - lâm nghiệp kết hợp dịch vụ và ngành nghề, từng bước xoá thế độc canh cây lúa, đã xuất hiện nhiều mô hình hộ nông dân sản xuất giỏi, thu nhập khá. Tổng sản lượng lương thực quy thóc năm 1991 đạt 12.000 tấn.

Chăn nuôi phát triển, tổng đàn gia súc gia cầm các loại đều tăng, bước đầu nuôi bò lai Sind, lợn Móng Cái được nhân dân hưởng ứng thực hiện.

Sản xuất lâm nghiệp được sắp xếp lại, sau khi chuyển giao cho tỉnh hai lâm trường quốc doanh, công tác quản lý bảo vệ rừng của huyện bước đầu có tiến bộ rõ nét, diện tích rừng được chăm sóc hàng năm đạt kế hoạch, hàng năm xây dựng được trên 30 ha vườn rừng, trồng mới trên 500.000 cây quế và một số cây khác theo chương trình PAM và dự án 327.

Trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp có bước chuyển biến mới, sản lượng điện hàng năm đạt bình quân 600.000 KW/h, hoàn thành tuyến đường dây tải điện Trà My- Tiên Phước. Kết hợp với thực hiện định canh định cư, huyện đầu tư xây dựng một số công trình thủy điện nhỏ, trạm thủy điện ở nhiều thôn, nóc.

Công tác thu chi và quản lý tài chính có nhiều tiến bộ, hàng năm thu vào ngân sách đạt bình quân từ 3-4 tỷ đồng, trong đó nguồn thu thuế hàng năm đều vượt kế hoạch từ 20-30 %. Kho bạc, ngân hàng đảm bảo lượng tiền mặt phục vụ trên địa bàn, trong ba năm 1991-1994, đã cho hơn 200 hộ nông dân vay để sản xuất nông - lâm nghiệp với số tiền trên 8 tỷ đồng.

Ngày 11.6.1991, Huyện Trà My đã tổ chức hội nghị tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 22- NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa VI) và Nghị quyết 04-NQ/HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh về cuộc vận động định canh định cư trên địa bàn huyện. Về kết quả đạt được, hội nghị nêu rõ: trong các năm qua, huyện bước đầu khảo sát qui hoạch tổng thể và điểm bố trí dân cư từ 500 điểm năm 1975, nay còn 150 điểm; vận động định canh định cư cho 920 hộ với 4.983 nhân khẩu, hình thức vận động phù hợp với đặc điểm điều kiện thực tế của từng địa phương, từng vùng. Với sự giúp đỡ của các cấp, huyện đã sửa và nâng cấp, mở mới một số tuyến đường giao thông từ huyện đến các cụm dân cư, đồng thời đã vận động nhân dân đóng góp hàng ngàn ngày công sửa chữa trên 220 km đường liên thôn, liên nóc, xây dựng 14 công trình thủy lợi, công trình thủy điện Nước Oa và một số công trình phúc lợi như giếng nước, nhà vệ sinh; xây dựng và sửa chữa 12 cơ quan xã, 3 trạm y tế, 23 trường học kiên cố; trồng 500 ha quế, 113 ha trẩu, 78 ha chè...Kết quả đó đã góp phần ổn định đời sống nhân dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện.

Tháng 3.1992, một sự kiện nổi bật của huyện là địa phương được vinh dự đăng cai tổ chức Lễ hội Văn hóa- Thể thao các huyện miền núi- trung du toàn tỉnh lần thứ X. Do được chuẩn bị tốt về mọi mặt, lễ hội đã thành công tốt đẹp. Kết quả, đoàn Trà My giành giải Nhất toàn đoàn, góp phần tăng thêm bộ sưu tập thành tích gồm 3 lần đạt giải Nhất, 5 lần đạt giải Nhì và 2 lần đạt giải Ba toàn đoàn trong các lần tham gia lễ hội.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) về tăng cường an ninh quốc phòng, Huyện ủy xây dựng chương trình hành động lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ an ninh quốc phòng trên địa bàn huyện, trong đó chỉ đạo Ban cán sự Đảng các cơ quan Ban chỉ huy quân sự huyện và Công an huyện thường xuyên tổ chức giao ban nắm tình hình, đánh giá lại việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác tham mưu giúp Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo trên lĩnh vực an ninh, quốc phòng.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng( khóa VII) về đẩy mạnh, phát triển các mặt văn hóa xã hội, ngày 4.1.1993, Huyện ủy tổ chức Hội nghị đánh giá tình hình phát triển văn hóa- xã hội trên địa bàn huyện trong những năm qua và đề ra phương hướng, nhiệm vụ trong thời gian đến. Về kết quả đạt được, Hội nghị nêu rõ: Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, các chế độ chính sách cơ bản thực hiện đồng bộ, công tác quy tập mộ liệt sĩ có nhiều cố gắng, công tác khen thưởng ba thời kỳ cơ bản hoàn thành; công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân có nhiều tiến bộ, cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế, thuốc men được tăng cường, bước đầu triển khai các chương trình y tế quốc gia có hiệu quả, thành công lớn là đã ngăn chặn được dịch bệnh sốt rét, hạn chế bệnh bướu cổ. Công tác truyền thông dân số và thực hiện kế hoạch hóa gia đình được triển khai ở những địa bàn trọng điểm; công tác thông tin văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao được duy trì thường xuyên thông qua các ngày lễ truyền thống của dân tộc, các loại hình văn hóa văn nghệ quần chúng được phát huy.

Tuy nhiên, do hạn hán kéo dài làm cho sản xuất mất mùa, đời sống nhân dân lâm vào khó khăn, 1/3 số hộ lâm vào tình trạng thiếu gạo trong những tháng giáp hạt, tỷ lệ hộ đói nghèo tăng lên 61,7 %, số lao động không có việc làm ổn định tăng lên gần 1.000 người.

Từ kết quả đạt được và những hạn chế, Huyện ủy đề ra chương trình hành động với nội dung chủ yếu: phát động phong trào tăng gia sản xuất, chỉ đạo các ngành, địa phương tập trung khắc phục thiên tai, chống, cứu đói, đẩy nhanh tiến độ xây dựng một số công trình thủy lợi phục vụ sản xuất. Đặc biệt là triển khai thực hiện các dự án từ chương trình 327, chương trình định canh định cư bằng nguồn vốn Nhà nước.

Song song với việc phát triển sản xuất, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc, công tác an ninh trật tự an toàn xã hội được củng cố, công tác xây dựng lực lượng vụ trang sẳn sàng chiến đấu từng bước đi vào nề nếp.

Thực hiện Chỉ thị 14-CT/TW, ngày 19.11.1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) và Thông tri số 20-TT/TU, ngày 8.12. 1992 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng về "Đổi mới và chỉnh đốn Đảng", đầu năm 1993, Ban Thường vụ Huyện ủy Trà My tổ chức hội nghị quán triệt và thông qua Chương trình hành động của Đảng bộ huyện, trong đó trọng tâm là tăng cường công tác xây dựng Đảng trên các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức.

Sau hơn một năm triển khai thực hiện, công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ có nhiều tiến bộ, tạo được sự thống nhất cao về ý chí và hành động trong toàn Đảng bộ, xây dựng được phong trào quần chúng rộng khắp, tiến công mạnh vào mục tiêu xoá đói giảm nghèo cũng như giữ nghiêm kỷ cương kỷ luật trong Đảng. Nếu như năm 1992, kết quả phân loại chất lượng tổ chức cơ sở Đảng, toàn Đảng bộ có 04 tổ chức cơ sở Đảng đạt danh hiệu Trong sạch vững mạnh, 35 tổ chức cơ sở Đảng đạt loại khá và 10 tổ chức cơ sở Đảng yếu kém, thì đến năm 1993, trong 47 tổ chức cơ sở Đảng( giải thể 2 tổ chức vì không đủ đảng viên do nghỉ chế độ), qua phân loại có 10 tổ chức cơ sở Đảng đạt danh hiệu Trong sạch vững mạnh, tăng gấp 2,5 lần so với năm 1992; 29 tổ chức cơ sở Đảng đạt loại khá; tổ chức cơ sở Đảng yếu kém chỉ còn lại 03 đơn vị, giảm 1/3 so với năm 1992.

Công tác phát triển đảng viên mới được duy trì, trong hai năm 1993-1994, Đảng bộ huyện kết nạp được 52 đảng viên mới. Việc xây dựng qui chế làm việc của các tổ chức Đảng được thực hiện tốt, đến năm 1994 đã có 40/46 cấp ủy của các tổ chức Đảng đã xây dựng qui chế làm việc, 18/20 chi, đảng ủy xã, thị trấn có qui chế cấp ủy lãnh đạo, ủy ban điều hành và mặt trận, đoàn thể phối hợp.

Công tác tổ chức cán bộ có nhiều cố gắng, đến tháng 7.1994 đã có 984/1476 đảng viên đã được phân công công tác, chiếm trên 67 % tổng số đảng viên toàn đảng bộ; đã cử 14 cán bộ chủ chốt đi đào tạo tại một số trường trong tỉnh, góp phần bồi dưỡng nguồn nhân lực cho huyện trong những năm đến.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn còn một số hạn chế: Vai trò lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng còn nhiều lúng túng. Việc đề ra nghị quyết lãnh đạo thiếu cụ thể, thiếu kiểm tra nên việc triển khai khắc phục những tồn tại, hạn chế còn chậm. Một số tổ chức cơ sở Đảng chưa xây dựng được qui chế, gây khó khăn trong lãnh đạo điều hành. Trình độ, năng lực của cán bộ, đảng viên về nhiều mặt còn yếu kém, nhất là đảng viên ở cấp xã...

Từ kết quả đạt được cũng như một số tồn tại trong công tác xây dựng Đảng, Huyện ủy đã đề ra một số chỉ tiêu và biện pháp khắc phục như: đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tiến hành khảo sát chất lượng tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên, phấn đấu hàng năm tăng từ 15-20 % tổ chức cơ sở Đảng đạt danh hiệu Trong sạch vững mạnh và giảm từ 25-30 % tổ chức cơ sở Đảng yếu kém. Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, chuẩn bị tốt đội ngũ cán bộ của huyện và xã vừa đảm bảo chất lượng và đồng bộ. Đổi mới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng.

Công tác vận động quần chúng đạt nhiều kết quả, từ sau khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng( khóa VI), mặt trận và các đoàn thể nhân dân từ huyện đến cơ sở được củng cố và từng bước đổi mới phương thức vận động quần chúng thực hiện các phong trào hành động cách mạng, nổi bật là các phong trào: “Phụ nữ hai giỏi”, “Nông dân sản xuất giỏi”, Hội cựu chiến binh với phong trào “Củng cố hội và làm nòng cốt ở cơ sở”.

Sau hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIII, tuy đã đạt được một số thành tựu đáng phấn khởi, song vẫn còn một số chỉ tiêu đại hội đề ra vẫn chưa đạt. Đây là vấn đề đặt ra cho Đảng bộ và nhân dân huyện là phải nỗ lực phấn đấu mới hoàn thành các chỉ tiêu phát triển kinh tế- xã hội đã đề ra.

Thực hiện Hướng dẫn của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc tổ chức Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ, từ ngày 2 đến ngày 4.5.1994, Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ Đảng bộ huyện Trà My ( khóa XIII) được tổ chức tại Hội trường Ủy ban Nhân dân huyện. Tham dự Hội nghị có 107 đại biểu. Về dự và chỉ đạo Hội nghị có đồng chí Mai Thúc Lân- Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy

Hội nghị bao gồm những nội dung sau: quán triệt Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng; kiểm điểm tình hình 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện khóa XIII; đề ra chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp trong những năm còn lại của nhiệm kỳ Đại hội. Ngoài ra, tại hội nghị này, huyện ủy còn tiến hành bầu bổ sung Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XIII gồm 5 đồng chí.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) về "Phát triển công nghiệp và công nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới", ngày 3.10.1994, Huyện ủy tổ chức Hội nghị đánh giá lại thực trạng tình hình phát triển công nghiệp, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất trên địa bàn huyện thời gian qua và đề ra phương hướng, nhiệm vụ trong thời gian đến. Đánh giá kết quả đạt được, Hội nghị nêu rõ: Trong những năm qua, cơ cấu kinh tế lâm- nông- ngành nghề có chuyển biến tích cực theo hướng đa dạng hóa và sản xuất hàng hóa, bước đầu áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nhờ đó năng suất, sản lượng lương thực tăng lên đáng kể. Tổng sản lượng lương thực hàng năm đạt bình quân từ 12.000-13.000 tấn; kinh tế lâm nghiệp bước đầu chuyển dịch theo hướng xã hội hóa lâm nghiệp, các lâm trường quốc doanh đã ổn định tổ chức và duy trì hoạt động, đầu tư thực hiện các dự án 327 gắn với định canh định cư, từng bước giao đất giao rừng đến các hộ sản xuất. Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp từng bước ổn định và phát triển; Nhà máy thủy điện Nước Oa hoạt động ổn định, hoàn thành tuyến đường dây tải điện Trà My- Tiên Phước và đã hòa vào lưới điện quốc gia. Trong hai năm 1992-1993, huyện đã thu hút trên 4,5 tỷ đồng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng mà chủ yếu tập trung cho các công trình về giao thông, thủy lợi.

Hội nghị cũng nêu lên một số hạn chế yếu kém: công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp và việc áp dụng công nghệ trên địa bàn huyện còn chậm, công nghiệp chế biến còn nhỏ bé; khả năng trang bị cho nền kinh tế quốc dân chưa đáng kể; kết cấu hạ tầng kém phát triển, trình độ công nghệ quá lạc hậu, năng suất lao động thấp, trình độ văn hóa, kỹ năng nghề nghiệp của lực lượng lao động thấp, một bộ phân công nhân lao động chưa nhận thức được vai trò và nhiệm vụ của giai cấp mình, thiếu tính tiền phong cách mạng.

Xuất phát từ đặc điểm của địa phương, Huyện ủy xây dựng Chương trình hành động đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục tiêu là: Phát triển kinh tế để đưa đời sống nhân dân thoát khỏi đói nghèo, phấn đấu đến năm 2000 xóa được hộ đói và giảm hộ nghèo còn dưới 20 %. Hạ tỷ lệ tăng dân số còn dưới 1,9 %, khắc phục tình trạng suy dinh dưỡng, giải quyết cơ bản bệnh sốt rét, bướu cổ. Huy động 80-90 % trẻ con trong độ tuổi đi học, thực hiện phổ cập tiểu học 2/3 số xã toàn huyện.

Thực hiện các mục tiêu trên, huyện đã đề ra một số chủ trương, biện pháp thực hiện như: chú trọng về công tác qui hoạch, phân vùng, xây dựng các chương trình dự án, về đầu tư và tín dụng cho các dự án, về công tác khuyến lâm, khuyến nông và khoa học công nghệ và công tác tổ chức cán bộ.

Thực hiện Nghị quyết 22-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa VII) và Nghị quyết 22- NQ/TU của Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng về thực hiện chính sách xã hội đối với miền núi, Đảng bộ huyện tập trung chỉ đạo thực hiện và bước đầu đem lại kết quả, nhất là trên lĩnh vực giáo dục và y tế. Tỷ lệ học sinh ra lớp hàng năm tăng, tình trạng học sinh bỏ học ngày càng giảm( năm học 1993-1994 còn 5,4 %); số người được khám chữa bệnh và có sổ y tế ngày càng tăng, các dịch bệnh như sốt rét, thổ tả...được ngăn ngăn ngừa và dập tắt kịp thời.

Tuy nhiên, thực trạng tình hình kinh tế - xã hội của địa phương còn rất nhiều khó khăn. Vào thời điểm tháng 10.1994, toàn huyện có 6973 hộ thì tỷ lệ hộ đói nghèo chiếm đến 61,7 %; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn quá lớn (2,5 %). Nhu cầu về giao thông thủy lợi, điện, trường học, trạm xá còn rất lớn và bức thiết song chưa được đáp ứng đáng kể.

Ngày 20.11.1994, cử tri các xã vùng trung và vùng thấp trong huyện hăng hái đi bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh khoá V, Hội đồng Nhân dân huyện khoá VI và Hội đồng Nhân dân cấp xã. Trước đó, ngày 17.11.1994, do điều kiện đi lại khó khăn, các xã vùng cao đã tham gia bầu cử trước. Cuộc bầu cử đã thành công tốt đẹp, toàn huyện có 23.187 cử tri tham gia bầu cử, đạt tỷ lệ 99,75 %.

Nhằm đánh giá hai năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) về các lĩnh vực văn hóa xã hội, ngày 29.12.1994, Huyện ủy tổ chức Hội nghị sơ kết quá trình triển khai thực hiện, đề ra phương hướng nhằm phát triển công tác giáo dục, công tác văn hóa thông tin, y tế và công tác dân số- kế hoạch hóa gia đình trong những năm đến, góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Ngày 29.8.1994, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh qui định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng" để ghi nhớ công lao to lớn của các bà mẹ đã có nhiều cống hiến, hy sinh cho Tổ quốc. Vinh dự trong đợt đầu tiên huyện Trà My có 4 mẹ được tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Đây là niềm vinh dự, tự hào của nhân dân Trà My nói chung và của phụ nữ huyện nhà nói riêng, là nguồn cổ vũ mạnh mẽ để các bà, mẹ, chị vươn lên trong phong trào thi đua “Hai giỏi” trong công cuộc đổi mới đất nước.

Để kịp thời củng cố lại Thường trực Huyện uỷ, sau khi đồng chí Trần Lợi, Phó Bí thư Huyện uỷ được điều về tỉnh, ngày 18.1.1995, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã họp và bầu đồng chí Đinh Mướk giữ chức Phó Bí thư Huyện uỷ. Tiếp đến, ngày 1.4.1995, Huyện ủy tiếp tục bầu đồng chí Huỳnh Tấn Sâm làm Phó Bí thư Huyện ủy thay đồng chí Nguyễn Chiến Hữu được điều về tỉnh.

Thêm một vinh dự cho Đảng bộ và nhân dân huyện Trà My nói chung và xã Trà Cót nói riêng, ngày 30.8.1995, Chủ tịch nước ký quyết định tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Trà Cót vì đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Nhìn chung, sau 5 năm (1991-1995) thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIII, tình hình các mặt của huyện có sự chuyển biến mặnh mẽ.

Về lĩnh vực nông, lâm nghiệp của huyện có bước phát triển. Triển khai thực hiện các dự án 327 ở 8/20 xã, thị trấn với tổng vốn đầu tư trên 5,5 tỷ đồng, mỗi năm nhân dân trồng mới bình quân 500.000 cây quế. Trong hai năm 1994-1995, huyện đã tiến hành giao trên 16.000 ha rừng cho hộ nông dân quản lý và gần 7.300 ha rừng được khoanh nuôi bảo vệ. Trong sản xuất nông nghiệp, nhờ chuyển dịch cơ cấu cây trồng, con vật nuôi nên tổng sản lượng lương thực năm 1995 tăng hơn 1991 hơn 800 tấn, đàn lợn tăng 109,3 %, đàn bò tăng 117 %, trong đó có 650 con bò lai Sind, đàn trâu tăng 128 %.

Công tác thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp được đầu tư đúng mức, huyện đã tập trung hoàn thành một số công trình: thủy lợi Tắk Chanh, đập Gò Tát, Nước Trắng, Suối Dứa và Suối Mơ với tổng kinh phí trên 461 triệu đồng. Ngoài ra còn sửa chữa một số công trình thủy lợi khác như Nước Rinh, Krét, Suối Đá, Tắk Nầm, Nước Xu, Đại An, Nước Rôn...Hàng năm, có 40-50 ha ruộng mới được khai hoang;

Trong công tác định canh định cư, huyện đã đầu tư 4,277 tỷ đồng cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển vốn rừng, tách hộ dãn dân, tham gia vào chương trình xóa đói giảm nghèo.

Việc đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng có nhiều cố gắng, huyện đã làm mới cầu treo Trà Cang, tu sửa cầu treo Nước Là, nâng cấp 10 km đường Tắk Pỏ- Tắc Chanh, làm mới 7,8 km đường Trà Đông- Trà Cót, tu sửa đường Dương Yên- Trà Dương với tổng kinh phí đầu tư trên 2,5 tỷ đồng.

Lĩnh vực phân phối lưu thông có nhiều cố gắng.Công tác thu thuế có nhiều tích cực, kết quả thu hàng năm đều đạt và vượt kế hoạch, có năm thu đạt từ 181-198,5%.

Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội: công tác giáo dục đào tạo từng bước ổn định và có mặt phát triển, chú ý đến công tác giáo dục truyền thống cách mạng, đào tạo giáo viên tại chỗ, củng cố cơ sở vật chất, thực hiện mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học được 1/4 số xã, tỷ lệ học sinh ra lớp tăng bình quân hằng năm gần 5 %.

Các hoạt động văn hóa thông tin, thể dục thể thao, truyền thanh truyền hình có nhiều khởi sắc. Chương trình xóa đói giảm nghèo đạt được nhiềư kết quả. Trong hai năm 1994-1995, huyện đã giảm 15 % trong tổng số 65 % số hộ đói nghèo của toàn huyện.

Công tác an ninh quốc phòng được chú trọng, tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện được giữ vững, phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc được triển khai đều khắp và có kết quả.

Công tác xây dựng Đảng được tăng cường. Cùng với việc đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, Đảng bộ quan tâm đến việc sắp xếp, kiện toàn lại các tổ chức cơ sở Đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII), từng bước giảm dần các tổ chức cơ sở yếu kém. Công tác phát triển đảng viên mới được chú trọng, trong 5 năm phát triển được gần 200 đảng viên mới; riêng trong năm 1995 phát triển được 48 đảng viên. Công tác đào tạo lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chú chốt được quan tâm đúng mức, nhiệm kỳ qua hơn 100 cán bộ được cử đi học tại các trường trong tỉnh.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, tình hình mọi mặ của địa phương vẫn còn nhiều vấn đề hạn chế. Đời sống của nhân dân tuy được cải thiện một bước nhưng vẫn còn khó khăn, nhất là các xã vùng cao, tỷ lệ hộ đói nghèo vẫn còn khá cao so với các huyện miền núi khác. Công tác xây dựng Đảng còn một số hạn chế, nhất là công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ cơ sở.

Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương và của tỉnh về việc tổ chức đại hội các cấp, tiến tới Đại hội VIII của Đảng, từ ngày 6 đến ngày 8.3.1996, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Trà My lần thứ XIV, nhiệm kỳ 1996-2000 được tiến hành tại Hội trường Trường Đảng (nay là Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện). Tham dự đại hội có 204 đại biểu, thay mặt cho gần 1.700 đảng viên trong toàn Đảng bộ. Về dự và chỉ đạo Đại hội có đồng chí Phạm Bân- Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh.

Đại hội đã đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIII, đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội của huyện thời kỳ 1996-2000; thông qua bản góp ý dự thảo văn kiện Đại hội VIII của Đảng và văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI.

Về phương hướng, nhiệm vụ trong những năm 1996-2000, Đại hội nêu rõ: Phát huy cao độ truyền thống cách mạng, tinh thần tự lực tự cường, sử dụng có hiệu quả đầu tư của cấp trên, đẩy mạnh thực hiện xóa đói giảm nghèo, ổn định đời sống, phát triển kinh tế - xã hội, trên cơ sở thực hiện tốt công tác qui hoạch, hoàn thành cơ bản cuộc vận động định canh định cư gắn liền với xây dựng nông thôn mới. Trên cơ sở xác định cơ cấu kinh tế: Lâm- nông- công nghiệp, dịch vụ thương mại, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng hóa đa dạng, phong phú, phát triển kinh tế gắn liền với giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội, đảm bảo an ninh và trật tự an toàn xã hội. Thực hiện mục tiêu "dân no, dân yên" gắn liền với xây dựng hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh, đủ sức đảm đương nhiệm vụ (1).

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Trà My khoá XIV, nhiệm kỳ (1996-2000) gồm 33 đồng chí; bầu Ban Thường vụ Huyện uỷ gồm 8 đồng chí. Đồng chí Hồ Văn Reo được bầu lại làm Bí thư; đồng chí Đinh Mướk và Huỳnh Tấn Sâm được bầu làm Phó Bí thư. Đại hội bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI gồm 11 đại biểu chính thức và 2 đại biểu dự khuyết.

Hưởng ứng các phong trào thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội VIII của Đảng, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện, Đảng bộ và nhân dân huyện Trà My đã đạt được nhiều thành tích đáng phấn khởi.

Trong sản xuất nông nghiệp, vụ sản xuất Đông - Xuân, Hè - Thu năm 1996 đạt năng suất cao, năng suất lúa nước tăng từ 3-4 tạ/ha so với năm 1995, tổng sản lượng lương thực đạt kế hoạch.

Ngành giáo dục đã tổ chức nhiều hoạt động hè bổ ích thiết thực cho học sinh; tổ chức tốt ngày toàn dân đưa trẻ đến trường.

Công tác lao động thương binh xã hội có nhiều cố gắng, kịp thời chi trả cho các đối tượng chính sách, phối hợp với các đơn vị liên quan thực hiện tốt việc qui tập mộ liệt sĩ. Thực hiện tốt các phong trào ủng hộ nhân dân Cu Ba, ủng hộ "Quỹ phụ nữ nghèo", “Tháng hành động vì trẻ em", chăm sóc người già cô đơn, người tàn tật. Trong năm đã huy động các tầng lớp nhân dân đóng góp vào các quỹ được 13.090.000 đồng.

Cũng trong năm 1996, toàn huyện hưởng ứng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư" do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động. Đây là cuộc vận động có ý nghĩa to lớn và được tiến hành lâu dài, thường xuyên với việc lồng ghép nhiều cuộc vận động, bao hàm nhiều hoạt động như: Xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, thực hiện chương trình dân số kế hoạch hoá gia đình, xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, xây dưng nếp sống văn minh, phong trào nông dân sản xuất giỏi, phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình, tuổi trẻ giữ nước, thanh niên lập nghiệp...Để thực hiện cuộc vận động đạt kết quả, Huyện ủy chủ trương thành lập Ban chỉ đạo do đồng chí Phó Chủ tịch ủy ban Nhân dân huyện làm Trưởng Ban. Qua gần một năm thành lập, Ban chỉ đạo đã xây dựng được 30 khu dân cư với 10 tổ đoàn kết. Nhiều tổ đã đi vào hoạt động có hiệu quả, phát huy được vai trò của tổ đoàn kết.

Thực hiện Chỉ thị 59- CT/TW, ngày 27.9.1995 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) về việc chăm sóc người cao tuổi, Huyện ủy đã giao cho Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện phụ trách. Theo thống kê, đến năm 1996, toàn huyện có 4.201 người cao tuổi, chiếm 8,7 % dân số. Huyện chọn 3 địa phương là thị trấn Trà My, xã Trà Dương và Trà Giang làm điểm. Từ năm 1996-1998, huyện đã tổ chức cho 100 % hội viên học tập Điều lệ Hội, mở lớp tập huấn động viên các cụ tham gia hòa giải, thực hiện khẩu hiệu “Trẻ xông pha, già mẫu mực".

Có thể nói rằng, với những thành tựu đạt được trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới (1986-1996) đã tạo thế và lực để Đảng bộ và nhân dân huyện Trà My bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Từ ngày 1.1.1997, thực hiện Nghị quyết kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX , tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng được tách thành 2 đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương là tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng. Huyện Trà My là đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Quảng Nam và Đảng bộ Trà My trực thuộc Đảng bộ lâm thời tỉnh Quảng Nam.

Ngày 20.7.1997 được chọn làm ngày bầu cử Quốc hội khóa X và bầu cử bổ sung Hội đồng nhân dân các cấp, Huyện ủy Trà My đã tích cực chỉ đạo công tác chuẩn bị bầu cử trên địa bàn huyện. Ngày 17.7.1997, do điều kiện đi lại khó khăn, được sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, huyện tổ chức bầu cử sớm ở các xã Trà Cang, Trà Linh, Trà Vân, Trà Giáp, Trà Leng và Trà Nam. Ngày 20.7.1997, các xã còn lại của huyện tiến hành bầu cử theo đúng thời gian qui định. Kết thúc đợt bầu cử, toàn huyện có 99,8 % cử tri tham gia bầu cử Quốc hội và 100 % cử tri đã tham gia bầu cử bổ sung đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Đây là lần đầu tiên của huyện có tỷ lệ cử tri tham gia bầu cử cao nhất từ trước đến nay.

Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy lâm thời Quảng Nam về việc tổ chức Đại hội các cấp, tiến tới đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 1997-2000, từ ngày 24 đến ngày 25.8.1997, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Trà My lần thứ XV được tiến hành tại Hội trường ủy ban nhân dân huyện. Tham dự đại hội có 143/150 đại biểu ở 42 tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc Đảng bộ huyện. Về dự và chỉ đạo Đại hội có đồng chí Lương Văn Hận- Uỷ viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy.

Đại hội tập trung một số nội dung: thông qua bản góp ý dự thảo văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII và bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ cấp trên. Kết quả, Đại hội đã bầu 13 đại biểu (trong đó gồm 11 đại biểu chính thức và 2 đại biểu dự khuyết) tham dự Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII.

Nhằm ổn định tổ chức bộ máy cán bộ, đảm bảo lãnh đạo thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện trong tình hình mới, ngày 12.11.1997, Huyện ủy Trà My khóa XIII triệu tập Hội nghị lần thứ 10 để bầu bổ sung ủy viên Ban Thường vụ và các chức danh chủ chốt của Huyện ủy. Kết quả, Hội nghị bầu đồng chí Huỳnh Tấn Sâm giữ chức Bí thư Huyện ủy, đồng chí Nguyễn Thành Vân giữ chức Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy; bầu bổ sung đồng chí Ngô Việt Trà và đồng chí Hồ Thanh Bá vào Ban Thường vụ Huyện ủy. Ngoài ra, Hội nghị còn công bố quyết định số 235/ QĐ-TU, ngày 3.10.1997 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam về việc chuẩn y bổ sung Ban chấp hành Đảng bộ Huyện Trà My khóa XIII gồm 3 đồng chí(1) vào Ban Chấp hành Đảng bộ huyện.

Thực hiện Quyết định số 100- QĐ/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) và Thông tri số 09 - TT/TU, ngày 5. 9.1996 của Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng về việc thành lập trung tâm bồi dưỡng chính trị các huyện, thị, ngày 5.3.1997, Ban Thường vụ Huyện ủy có Quyết định 235- QĐ/HU “về việc thành lập Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện Trà My" (2). Nhiệm vụ của Trung tâm được xác định là mở lớp đào tạo, bồi dưỡng chương trình lý luận chính trị, nghiệp vụ cho cán bộ, đảng viên từ huyện đến cơ sở. Huyện ủy giao cho Ban Tuyên giáo Huyện ủy hướng dẫn, chỉ đạo nội dung, chương trình đào tạo.

Việc ra đời Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện đã góp phần nâng cao lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Nhân kỷ niệm 50 năm ngày Thương binh- Liệt sĩ (27.7.1947-27.7.1997), Huyện ủy Trà My đã chỉ đạo các ngành, địa phương trong huyện tổ chức các hoạt động tình nghĩa, trong đó nổi lên nhất là tìm kiếm và quy tập mộ liệt sĩ vào nghĩa trang, vận động đóng góp qũy đền ơn đáp nghĩa, tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao. Kết quả, trong đợt này, huyện đã vận động cán bộ, đảng viên và nhân dân đóng góp được 21.971.000 đồng vào quỹ đền ơn đáp nghĩa, quy tập được 12 mộ liệt sĩ vào nghĩa trang, vận động xây dựng 1 ngôi nhà tình nghĩa và sửa chữa 7 ngôi nhà tình nghĩa, tặng 51 sổ tiết kiệm cho gia đình chính sách.

Thực hiện Chỉ thị 04-CT/TU, ngày 12.7.1997 của Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Quảng Nam “về việc Xây dựng thôn - bản văn hóa, cơ quan văn hóa”, Huyện ủy chỉ đạo các ngành liên quan đẩy mạnh việc xây dựng nếp sống văn hóa trên địa bàn huyện với những nội dung phù hợp với đặc điểm của địa phương,.

Triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung Đảng khóa VIII về giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ, ngày 1.12.1997, Huyện ủy tổ chức hội nghị quán triệt và đề ra chương trình hành động gồm một số nội dung sau:

- Phấn đấu đưa trẻ em ở độ 5 tuổi đi học chương trình mẫu giáo lớn đạt từ 80-100 % đối với các xã vùng thấp và từ 40-50 % các em ở các xã vùng trung, vùng cao.

- Duy trì kết quả phổ cập tiểu học, xóa mù chữ, tiến tới phổ cập trung học cơ sở trong độ tuổi, đạt từ 20-25 % số xã, thị trấn.

- Phấn đấu từ 80-100 % số trường tiểu học khu vực thị trấn Trà My, Trà Đông, Trà Dương, Trà Giang và từ 20-25 % các trường còn lại thực hiện có chất lượng chương trình 165 tuần, đảm bảo đầy đủ chương trình 9 môn do Bộ Giáo dục - đào tạo qui định và có từ 3-5 trường dạy 2 buổi trong ngày. Nâng tỷ lệ trẻ em tốt nghiệp tiểu học ở độ tuổi 11 lên 70-80 %, học sinh trung học cơ sở tốt nghiệp đạt 85-95 % và học sinh trung học phổ thông tốt nghiệp đạt 90-98 %. Hàng năm, đảm bảo từ 25-30 % số học sinh trung học phổ thông thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề.

- Hàng năm đào tạo từ 20-25 % lao động tại các trung tâm giáo dục thường xuyên, hướng nghiệp dạy nghề

Ngày 22.6.1998, Chính phủ có Nghị định số 43/1998/NĐ-CP về việc chia xã Trà Vân thành hai đơn vị hành chính là xã Trà Vân và xã Trà Vinh. Huyện uỷ Trà My đã chỉ đạo tốt việc chia xã lần này.

Ngày 1.8.1998, Huyện ủy tổ chức Hội nghị nhằm đánh giá tình hình thực hiện Chỉ thị 29- CT/TW, ngày 8.11.1993 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với cơ quan bảo vệ pháp luật". Về kết quả thực hiện, Hội nghị nêu rõ: Triển khai Chỉ thị 29 đã góp phần tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của các cấp ủy Đảng trong việc quan tâm lãnh đạo các cơ quan bảo vệ pháp luật. Sau 5 năm thực hiện, hoạt động của cơ quan bảo vệ pháp luật có chuyển biến mạnh mẽ. Trong đó đáng chú ý: ngành công an phát hiện xử lý 161 vụ, xử lý hành chính 104 vụ; ngành kiểm sát thụ lý 168 vụ xâm phạm trật tự trị an xã hội, 18 vụ kiểm sát tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội, cùng với công an thụ lý, khởi tố, truy tố 52 vụ vi phạm trật tự trị an xã hội, bắt giữ xử lý 273 đối tượng, phê giam 65 tên tội phạm; ngành tòa án thụ lý giải quyết 206 vụ, trong đó án hình sự 50/56 bị cáo, án dân sự 156 vụ, ra quyết định phạt tù 48 bị án; ngành tư pháp và thi hành án đã thành lập hội đồng tuyên truyền pháp luật, tham mưu Ủy ban Nhân dân huyện bải bỏ 179 văn bản, 46 văn bản đề nghị sửa đổi bổ sung; ngành thanh tra đã phối hợp thường xuyên với các ngành liên quan thanh tra xử lý 8 cán bộ nhân viên vi phạm, thu về cho công quỹ 333.820.948 đồng, 16,8 m3 gỗ các loại, kết quả đó đã góp phần đấu tranh chống các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh tế, xã hội.

Ngày 22.10.1998, Huyện ủy tổ chức Hội nghị quán triệt và đề ra Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về các vấn đề kinh tế, xã hội của đất nước. Chương trình hành động của huyện đến năm 2000 gồm một số nhiệm vụ trọng tâm là:

- Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và điều chỉnh cơ cấu đầu tư nông lâm-công nghiệp chế biến- dịch vụ đạt tỷ lệ: 60 %- 25 %- 15 %. Trong 60 % giá trị nông- lâm nghiệp, phải chuyển mạnh cơ cấu cây trồng, con vật nuôi, trong đó, lâm nghiệp đạt 40 %, nông nghiệp đạt 20%.

- Đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với mục tiêu xóa đói giảm nghèo mỗi năm từ 10-15 %.

- Đẩy mạnh công tác đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực.

Từ đầu năm 1999, Huyện ủy Trà My tổ chức hội nghị bàn giải pháp thực hiện Nghị quyết 02-NQ/TU, ngày 22.10.1998 của Tỉnh ủy Quảng Nam “về xây dựng và phát triển giao thông nông thôn đến năm 2000-2005". Hội nghị nêu rõ việc phát triển giao thông của huyện là yêu cầu, nhiệm vụ bức thiết làm tiền đề cho việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trước mắt cũng như lâu dài.

Về nhiệm vụ trước mắt, hội nghị tập trung lên một số nhiệm vụ trọng tâm như: sửa chữa, nâng cấp và từng bước hoàn chỉnh một số tuyến đường đã có như tuyến đường Trà My- Tắk Pỏ- Tắk Chanh, ngã ba Dương Yên- Trà Đông- Trà Nú- Trà Cót, Trà Giáp- Trà Giác, Bưu điện- Trà Giang; đảm bảo giao thông cho các loại xe cơ giới, trước mắt là xe tải, xe khách, xe công vụ đi lại an toàn. Đối với các tuyến đường liên xã, liên thôn, huyện cần đầu tư phát triển về chiều dài và qui mô, hệ thống cầu treo giao thông nông thôn phải đảm bảo an toàn cho nhân dân đi lại, góp phần thúc đẩy kinh tế- xã hội phát triển, thực hiện xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an ninh quốc phòng.

Từ khi triển khai thực hiện Nghị quyết 02 của Tỉnh ủy, trong hơn 3 năm (2000-2003), huyện đã tập trung phát triển mạng lưới giao thông trên toàn huyện, nhất là các xã vùng cao, xây mới được một số cầu qua sông, đảm bảo an toàn cho việc đi lại của nhân dân các vùng, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy kinh tế- xã hội trên địa bàn huyện phát triển thêm một bước.

Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị 14-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) về “củng cố tổ chức, phát huy tác dụng tích cực của Hội Chữ thập đỏ" ở địa bàn huyện, tháng 10.1998, Huyện ủy Trà My tổ chức Hội nghị bàn giải pháp thúc đẩy hoạt động của Hội chữ thập đỏ huyện trong những năm đến. Đánh giá kết quả đạt được, Hội nghị nhấn mạnh: Từ vài cơ sở hội của những năm 1989 - 1990, sau 10 năm xây dựng và phát triển, Hội chữ thập đỏ huyện thành lập được 9 tổ chức cơ sở hội với 769 hội viên, vận động được hàng trăm triệu đồng, hàng trăm tấn gạo, hàng ngàn bộ quần áo, hàng trăm cơ số thuốc, góp phần cứu giúp đồng bào vượt qua thiên tai, hoạn nạn, giúp gia đình neo đơn cải thiện đời sống.

Một vinh dự cho Đảng bộ và nhân dân huyện Trà My nói chung, Đảng bộ và nhân dân xã Trà Đốc nói riêng là ngày 28.8.1998, Chủ tịch nước có quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Trà Đốc vì đã có những thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đây là nguồn cổ vũ lớn lao giúp Trà Đốc từng bước vượt qua khó khăn, vươn lên xây dựng quê hương ngày càng phát triển, xứng đáng với quê hương anh hùng.

Ngày 15.9.1998, Huyện ủy tổ chức hội nghị quán triệt và đề ra Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung Đảng khóa VIII “về chiến lược cán bộ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". Trên cơ sở tình hình cán bộ và công tác cán bộ của địa phương trong những năm qua, Chương trình hành động của Huyện ủy đề ra một số mục tiêu cơ bản trong công tác cán bộ đến năm 2005 là:

+ Ở cấp huyện: Đến năm 2005, cán bộ lãnh đạo do Huyện ủy quản lý phải có từ 65-70% đạt trình độ cao đẳng, đại học về chuyên môn; 80-85% có trình độ trung, cao cấp về lý luận chính trị.

+ Ở cấp xã: cán bộ chủ chốt phải có 100 % tốt nghiệp cấp II, 25-30 % có trình độ trung cấp về chuyên môn, 100 % có trình độ trung cấp lý luận chính trị.

Ngày 4.12.1998, Huyện ủy tổ chức hội nghị quán triệt và đề ra Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) "về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", trong đó đề ra 8 mục tiêu của huyện thực hiện đến năm 2000 gồm: 40-50 % xã, thị trấn có thiết chế văn hóa để sinh hoạt cộng đồng trong các kỳ lễ hội và văn hóa văn nghệ; 100 % số xã có điểm thôn văn hóa ( 21 điểm/ 21 xã). Phấn đấu 50 % số thôn, bản này đạt tiêu chuẩn thôn, bản văn hóa; các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể, doanh nghiệp, trường học...đạt 100 % đơn vị văn minh; 40 % số hộ được xem truyền hình; mỗi người dân được xem 2 lượt chiếu bóng/ năm và 1-2 lần xem biểu diễn nghệ thuật/năm; số đầu sách đầu tư cho mỗi người dân 1 bản/người; 100 % cán bộ nghiệp vụ, quản lý văn hóa cấp huyện có trình độ đại học và trung cấp chuyên ngành; 60 % cán bộ quản lý văn hóa là đảng viên

Thực hiện Chỉ thị 34-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng trong trường học, trong năm 1998, huyện đã tổ chức lớp bồi dưỡng đối tượng Đảng cho gần 180 đoàn viên ưu tú trong ngành giáo dục, thành lập 8 chi bộ trường học và đã có 23 trường học trong tổng số 28 trường học của huyện có đảng viên

Một sự kiện lớn diễn ra ở huyện Trà My trong dịp kỷ 68 năm ngày thành lập Đoàn, ngày 26.3.1999, Trung ương Đoàn và Tỉnh Đoàn Quảng Nam tổ chức cho đoàn viên thanh niên các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên về thăm căn cứ địa của Khu uỷ V tại Nước Oa, Trà My.

Đây là đợt hoạt động “Về nguồn”, thông qua việc gặp gỡ với các đồng chí nguyên lãnh đạo Khu uỷ, Bộ Tư lệnh Quân khu V, các ngành, đoàn thể của Khu uỷ V và nhân dân huyện Trà My anh hùng...đã góp phần giáo dục cho đoàn viên và thanh niên ghi nhớ công lao của các thế hệ đi trước.

Cũng trong cuộc hành quân này, tuổi trẻ các tỉnh miền Trung- Tây Nguyên đã tổ chức một số hoạt động tình nghĩa như gắn bia tưởng niệm, bàn giao hai phòng học và ra mắt làng Thanh niên Nước Oa.

Một chủ trương quan trọng của Huyện ủy khóa XIV là ngày 4.8.1999, Huyện ủy có Nghị quyết 04-NQ/HU “về một số vấn đề sản xuất nông nghiệp và nông thôn đến năm 2000-2005 và những năm tiếp theo". Trên cơ sở đánh giá tình hình sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và nông thôn trên địa bàn huyện trong những năm qua, Huyện ủy đã đề ra một số mục tiêu trong những năm đến như sau:

- Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, để phát triển theo hướng nông, lâm nghiệp - công nghiệp chế biến- dịch vụ đạt tỷ lệ tương ứng 60 % (nông lâm nghiệp)- 25 % (công nghiệp chế biến) - 15 % (dịch vụ). Trong nông, lâm nghiệp phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng, con vật nuôi để đạt 50 % trong nông nghiệp, 20 % trong lâm nghiệp và 30 % trong chăn nuôi. Phấn đấu đạt sản lượng lương thực hàng năm từ 15.000- 16.000 tấn, đảm bảo bình quân lương thực đầu người từ 200 kg lên 280 kg/ năm. Đến năm 2000 cơ bản xóa hộ đói, giảm tỷ lệ đói nghèo 10 %, năm 2005 còn 30 %

- Đẩy mạnh trồng rừng phủ xanh đất trống đồi trọc. Từ năm 1999-2005 phấn đấu trồng thêm 16.500 ha rừng, khoanh nuôi bảo vệ rừng tự nhiên 6.500 ha, bảo vệ tốt rừng tự nhiên hiện có và trên 2.000 ha rừng đã trồng, nâng độ che phủ của rừng từ 55-60 %.

- Tiếp tục triển khai các dự án của chương trình mục tiêu về định canh định cư, hoàn thành cơ bản các trung tâm cụm xã Tắk Pỏ, Tắk Chanh.

Nghị quyết 04 - NQ/HU của Huyện ủy ra đời đã đáp ứng nguyện vọng của đông đảo nhân dân, góp phần nâng cao nhận thức trong các cấp ủy Đảng, chính quyền về đẩy mạnh phát triển nông nghiệp và nông thôn ở miền núi. Qua ba năm triển khai thực hiện bước đầu đã đạt được một số kết quả đáng kể.

Trước hết, về nông nghiệp, công tác chuyển dịch cơ cấu cây trồng, chuyển đổi mùa vụ, chuyển giao và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất được đẩy mạnh, từng bước làm thay đổi tập quán canh tác lạc hậu. Trong hai năm, đã có 1.683/8.500 hộ, chiếm 19,8 % làm ăn theo phương thức sản xuất mới, nâng tổng số hộ dân trên địa bàn huyện biết áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật lên 4.003/8.500 hộ, chiếm 47 %.

Nhờ công tác chuyển dịch cơ cấu và đa dạng hóa cây trồng, tăng cường các biện pháp thâm canh, xen canh, tăng vụ, hàng trăm hộ nông dân ở các địa phương như Trà Dương, thị trấn Trà My, Trà Giang, Trà Bui, Trà Giác...thoát khỏi đói, nghèo, nhiều hộ vươn lên làm giàu, mua sắm được xe máy, ti vi và nhiều vật dụng có giá trị khác trong gia đình.

Từ chỉ đạo sản xuất thử nghiệm 2 vụ/ năm đối với cây lúa nước ở xã Trà Nam, đến năm 2000, toàn huyện đã thực hiện chuyển đổi được 75/280 ha sang làm hai vụ. Các xã Trà Mai, Trà Tập, Trà Don, Trà Vân, Trà Nam là những đơn vị làm tốt công tác này. Việc đưa vào sản xuất các loại giống mới phù hợp với điều kiện đất đai, thời tiết khí hậu đã đưa năng suất và sản lượng tăng lên đáng kể, trong đó ngô tăng từ 3-4 tạ /ha, lúa tăng từ 3-3,5 tạ /ha.

Phong trào khai hoang mở rộng diện tích được nông dân hưởng ứng, năm 1999, khai hoang được 33,8 ha, năm 2000 khai hoang được 51,6 ha.

Lâm nghiệp và công tác định canh định cư có chuyển biến, trong 2 năm, huyện đã đầu tư cho công tác khoanh nuôi, tái tạo, bảo vệ và trồng rừng trên 2,7 tỷ đồng, xây dựng 6 công trình thủy lợi, sửa chữa 5 công trình nước sạch, chuyển dãn 45 hộ dân.

Phong trào phát triển cây công nghiệp, dược liệu...được đẩy mạnh. Trong hai năm, toàn huyện đã trồng 1.157 ha với 2.123.400 cây quế. Dự án phát triển và bảo vệ nguồn gien sâm K5 tại Trà Linh được Nhà nước hỗ trợ và đầu tư, bước đầu có 63 hộ nhận trồng giống sâm này.

Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ thương mại từng bước được mở rộng. Đến năm 2000, có 7 xã, thị trấn có lưới điện, phục vụ cho gần 6.800 hộ.

Lĩnh vực đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng có bước phát triển mạnh, hàng trăm công trình được đầu tư xây dựng như: đầu từ 1,2 tỷ đồng xây dựng trung tâm cụm xã Trà Don, Tắk Pỏ; cải tạo nâng cấp đường Trà My- Tắk Pỏ với số vốn 34,56 tỷ đồng; dự án phá triển hạ tầng nông thôn được đầu tư bước đầu trên 3 tỷ đồng; đầu tư 4 tỷ đồng xây dựng 3 cầu treo bắc qua sông Tranh; các công trình thuộc Chương trình 135 với tổng vốn đầu tư trên 11 tỷ đồng...góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng trên địa bàn huyện.

Thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII), ngày 18.9.1999, Huyện ủy ban hành Hướng dẫn số 11/HD-HU về việc “Hướng dẫn các tổ chức cơ sở Đảng tiến hành chuẩn bị tự phê bình và phê bình trong toàn Đảng bộ”. Tiếp đến, từ ngày 6 đến ngày 8.4.2000, Ban Thường vụ Huyện ủy tổ chức sinh hoạt để kiểm điểm tập thể và 11/11 đồng chí ủy viên Thường vụ Huyện ủy, tiếp sau đó các tổ chức cơ sở Đảng từ huyện đến cơ sở tiến hành sinh hoạt kiểm điểm. Đến ngày 19.5.2000, 45/45 tổ chức cơ sở Đảng trong toàn Đảng bộ đã hoàn thành việc kiểm điểm tập thể và cá nhân cấp ủy cơ sở; lãnh đạo các cơ quan ban, ngành, địa phương.

Kết quả qua tổ chức triển khai, quán triệt nghị quyết bước đầu đạt được kết quả đáng phấn khởi: 100 % tập thể và cá nhân thuộc diện được kiểm điểm đã thấy được những mặt ưu điểm và khuyết điểm của mình; có 2 đảng bộ, 64 cá nhân xã bị xử lý kỷ luật do vi phạm nguyên tắc tổ chức của Đảng, buông lỏng vai trò lãnh đạo, quản lý, trong đó khiển trách 26 đồng chí, cảnh cáo 23 đồng chí, cách chức 04 đồng chí và khai trừ 11 đồng chí ra khỏi Đảng.

Nhờ làm tốt công tác tự phê bình và phê bình nên 45/45 tổ chức cơ sở Đảng đã tiến hành đại hội theo đúng tinh thần Chỉ thị 54 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) và Chỉ thị 24 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam. Kết quả phân loại tổ chức cơ sở Đảng năm 2000, toàn huyện có 26/45 tổ chức cơ sở Đảng đạt danh hiệu Trong sạch vững mạnh, chiếm 57,8 %, tăng gấp 2,5 lần so với năm 1994, có 15 tổ chức cơ sở Đảng đạt loại khá và giảm số tổ chức cơ sở Đảng yếu kém còn 04 đơn vị.

Ngày 14.11.1999 được quy định là ngày bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, nhiệm kỳ 1999-2004. Huyện đã tập trung chỉ đạo nên đến ngày 13.11.1999, các công việc chuẩn bị cho bầu cử được hoàn thành, song do điều kiện lũ lụt xảy ra trên địa bàn tỉnh nên đình lại. Đến ngày 28.11.1999, Trà My tiến hành bầu cử. Mặc dù trời mưa, đường sá đi lại khó khăn, song không khí của bầu cử vẫn sôi nổi, nhiều nơi tổ bầu cử đã mang thùng phiếu bầu cử đến tận nhà để cho cử tri được bầu. Kết thúc cuộc bầu cử, toàn huyện có 99,8 % cử tri đi bầu và đã bầu ra 29 đại biểu Hội đồng Nhân dân huyện khóa VII và 422 đại biểu Hội đồng Nhân dân xã.

Thực hiện Nghị định 34/CP của Thủ tướng Chính phủ về phát hành công trái xây dựng Tổ quốc, Huyện ủy đã chỉ đạo cho các ngành, đoàn thể, các địa phương phấn đấu thực hiện các chỉ tiêu của cấp trên giao. Đến cuối 1999, toàn huyện đã tham gia mua được 299,2 triệu đồng.

Từ năm 1999, Chương trình 135 của Chính phủ được triển khai trên địa bàn. Huyện ủy đã chỉ đạo tốt công tác phối hợp với các đơn vị liên quan trong việc triển khai các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở một số xã thuộc chương trình 135.

Ngày 1.12.1999, Huyện ủy Trà My tổ chức hội nghị chuyên đề để đánh giá 5 năm qua triển khai thực hiện Chỉ thị 36-CT/TW và Chỉ chị 38-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) “về công tác thể dục- thể thao" và "công tác bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em" trên địa bàn huyện. Về kết quả đạt được, hội nghị nêu rõ:

Về công tác thể dục - thể thao: Phong trào thể dục- thể thao được phát triển mạnh trong cán bộ công nhân viên chức, thanh thiếu nhi, học sinh. Đến năm 1998, toàn huyện có trên 2.000 người thường xuyên tập luyện thể dục thể thao, chiếm hơn 3 % dân số, năm 1999 tăng lên gần 3500 người, chiếm gần 6 % dân số. Qua 5 năm, số người tham gia rèn luyện thể dục thể thao ngày càng đông và ý thức tự giác được nâng lên, nhất là phong trào tập luyện thể dục vào buổi sáng.

Về công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em: tuy Ủy ban bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em huyện mới được thành lập từ năm 1995, song đã bước đầu đã cố gắng, tích cực tham mưu cho Huyện ủy, Ủy ban Nhân dân huyện về công tác được giao. Hằng năm, ngành đã vận động các tầng lớp nhân dân trong huyện thực hiện “Tháng hành động vì trẻ em" nhằm động viên phong trào toàn dân chăm lo bảo vệ và chăm sóc trẻ em.

Từ những kết quả đạt được và những tồn tại, Hội nghị nêu lên một số biện pháp nhằm đẩy mạnh phong trào thể dục- thể thao và công tác bảo vệ- chăm sóc- giáo dục trẻ em trên địa bàn huyện trong những năm đến.

Năm 2000, năm có nhiều ngày lễ kỷ niệm năm tròn năm chẳn, do đó công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng trong cán bộ, đảng viên được quan tâm. Trong năm, huyện đã mở 25 lớp, thu hút 2.041 học viên tham dự, góp phần nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương và chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, về kiến thức quản lý Nhà nước, nghiệp vụ công tác xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận và các hội đoàn thể.

Cùng với công tác giáo dục chính trị tư tưởng, công tác củng cố, kiện toàn tổ chức cơ sở Đảng được tiến hành thường xuyên, trong năm đã tiến hành củng cố chức danh lãnh đạo ở một số xã như Trà Vinh, Trà Bui, Trà Giang, Trà Giáp và đề bạt 3 phó phòng, ban ở huyện, thành lập được 8 chi bộ trường học và thành lập 2 chi bộ dân quân cơ động, kiện toàn cán bộ chủ chốt chính quyền ở một số cơ quan và các xã. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã tổ chức trao tặng Huy hiệu Đảng 40 năm, 50 năm tuổi Đảng cho một số đảng viên. Đến thời điểm năm 2003, toàn huyện có 188 đồng chí được trao huy hiệu 40 năm tuổi Đảng, 22 đồng chí được trao huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.

Thực hiện quyết định của Ban Thường vụ Liên Đoàn Lao động tỉnh Quảng Nam, ngày 16.3.2000, Liên đoàn Lao động huyện Trà My được thành lập lại để thay cho chức năng, nhiệm vụ của Ban Cán sự Công đoàn huyện thành lập năm 1995. Sau gần một năm thành lập, hoạt động của công đoàn huyện từng bước đi vào nề nếp. Kết quả phân loại thi đua năm 2000, có 2 công đoàn cơ sở vững mạnh xuất sắc được tỉnh tặng bằng khen, 6 công đoàn vững mạnh và 2 cơ sở đạt khá, đồng thời thành lập được 9 công đoàn cơ sở, phát triển thêm 20 đoàn viên mới.

Một vinh dự cho Đảng bộ và nhân dân huyện Trà My nói chung, cán bộ, đảng viên và nhân dân xã Trà Giác nói riêng là ngày 28.4.2000, Chủ tịch nước ký quyết định phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân xã Trà Giác vì đã có những thành tích xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Như vậy, đến cuối năm 2000, Trà My có 5 tập thể và 1 cá nhân được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; 15 mẹ được phong và truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.

Nhìn chung, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện khóa XIV, tình hình các mặt của huyện đều có tiến triển: Hàng năm, kinh tế của huyện đều có sự tăng trưởng, sản xuất nông lâm nghiệp gắn với định canh định cư, cơ cấu kinh tế nông lâm nghiệp, cơ cấu cây trồng tiếp tục được chuyển đổi, diện tích lúa nước được mở rộng, tổng diện tích khai hoang ruộng nước (1996-2000) đạt trên 100 ha, tổng sản lượng lương thực qui thóc bình quân hàng năm đạt 13.800 tấn, gần đạt chỉ tiêu đề ra.

Chăn nuôi tiếp tục phát triển, nhất là chương trình Sind hóa đàn bò được triển khai trên diện rộng, tổng đàn trâu tăng 16,7 %, đàn bò tăng 49 %, đàn heo tăng 17 %, gia cầm tăng 34 %.

Sản xuất lâm nghiệp được đầu tư đúng mức, tổng vốn đầu tư cho phát triển lâm nghiệp 5 năm qua hơn 8 tỷ đồng, bình quân mỗi năm trồng mới 324 ha rừng tập trung, đã tiến hành giao khoán bảo vệ rừng 6.642/72.242 diện tích rừng tự nhiên, đạt chỉ tiêu kế hoạch.

Giá trị đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng tăng nhanh, từ 1,46 tỷ đồng năm 1996 lên 29,94 tỷ đồng năm 2000; tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản đạt 64,2 tỷ đồng, trong đó ngân sách Trung ương và tỉnh chiếm 85,5 %; nhiều công trình được tiếp tục nâng cấp đưa vào sử dụng

Trên lĩnh vực văn hóa xã hội có nhiều tiến bộ. Giáo dục đào tạo phát triển về qui mô và nâng dần chất lượng, tỷ lệ huy động học sinh ra lớp hàng năm đạt 90 %, học sinh tốt nghiệp các cấp đạt 85 %; chương trình y tế quốc gia được triển khai rộng khắp; mạng lưới y tế cơ sở được mở rộng, đã đào tạo 143 y tá thôn bản phát huy tác dụng tốt, chương trình tiêm chủng mở rộng được triển khai 21/21 xã với 94 % số thôn. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, truyền thanh, truyền hình có chuyển biến. Huyện đã xây dựng được 28 thôn văn hóa gắn liền với đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Chương trình xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống nhân dân được quan tâm đúng mức, tỷ lệ đói nghèo hàng năm giảm dần từ 65 % năm 1994 đến năm 2000 còn 41,5 %.

Tình hình an ninh quốc phòng được giữ vững, chỉ tiêu tuyển quân hàng năm đạt 100 %, hoàn thành chỉ tiêu huấn luyện hàng năm, lực lượng dự bị động viên được củng cố, tỷ lệ đảng viên trong lực lượng dân quân đạt 5,3 %, có 17/17 chi bộ quân sự xã, thị trấn đạt danh hiệu vững mạnh. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc được duy trì thường xuyên, an ninh nông thôn được giải quyết tốt, không xảy ra "điểm nóng".

Công tác xây dựng Đảng được tăng cường, nhất là từ khi triển khai thực hiện 5 chuyên đề và thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII), Đảng bộ đã kết nạp được 299 đảng viên mới, trong đó có 62 đồng chí có trình độ đại học, cao đẳng, 56 đồng chí có trình độ cấp III, tăng gần 1,5 lần so với thời kỳ 1991-1995, đưa đi đào tạo ở Trung ương, ở tỉnh và tổ chức đào tạo tại địa phương cho 201 đồng chí trung cấp, cao cấp lý luận chính trị và chuyên ngành, tăng 94 đồng chí so với đầu nhiệm kỳ. Chất lượng tổ chức cơ sở Đảng ngày càng nâng lên, đến năm 1999 có 28 tổ chức cơ sở Đảng đạt danh hiệu đơn vị trong sạch vững mạnh, tăng 16,1 % so với đầu nhiệm kỳ, tổ chức cơ sở Đảng yếu kém có 04 tổ chức, so với đầu nhiệm kỳ giảm 20,9%. Công tác kiểm tra của Đảng bộ được tiến hành thường xuyên, đảm bảo đúng qui trình, nguyên tắc, Điều lệ Đảng. Cả nhiệm kỳ, đã tiến hành kiểm tra 304 đảng viên có dấu hiệu vi phạm, quan kiểm tra đã tiến hành xử lý kỷ luật 141 đảng viên, trong đó có 5 đồng chí cán bộ đảng viên thuộc diện Tỉnh ủy quản lý, 74 cán bộ do Huyện ủy quản lý và 62 cán bộ do cơ sở quản lý; với hình thức kỷ luật khiển trách 46 đồng chí, cảnh cáo 42 đồng chí, cánh chức 20 đồng chí và khai trừ 33 đồng chí, đồng thời ngành kiểm tra của Đảng bộ huyện cũng đã giải quyết kịp thời các đơn thư khiếu nại tố cáo ở 17/17 đơn vị.

Công tác xây dựng chính quyền, mặt trận, đoàn thể nhân dân ở các cấp được tăng cường, năng lực quản lý được nâng lên rõ rệt. Đặc biệt là từ khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về phát huy quyền làm chủ của nhân dân và về chiến lược cán bộ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIV vẫn còn một số hạn chế như: chưa phát huy tốt nội lực, chưa khai thác đúng mức tiềm năng, thế mạnh của địa phương, còn lúng túng, chậm trễ trong thực hiện chuyển dịch cơ cấu, tiến độ xóa đói giảm nghèo còn chậm; trên lĩnh vực văn hóa xã hội còn nhiều vấn đề bức xúc, đời sống nhân dân vẫn còn nhiều khó khăn; nền quốc phòng toàn dân phát triển chưa toàn diện, thiếu vững chắc, vận hành cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, cơ quan quân sự làm tham mưu ở xã chưa đồng bộ; hoạt động của mặt trận và các hội đoàn thể còn nặng về hành chính, nội dung, phương pháp, hình thức vận động quần chúng còn nghèo nàn và lúng túng. Công tác xây dựng Đảng vẫn còn những hạn chế nhất định trong công tác giáo dục chính trị tư tưởng, qui hoạch, đào tạo cán bộ, trong đấu tranh tự phê bình và phê bình.

Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương và tỉnh về tổ chức Đại hội các cấp, tiến tới Đại hội IX của Đảng, từ ngày 9 đến ngày 12.10.2000, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Trà My lần thứ XV(1), nhiệm kỳ 2000-2005 được tiến hành tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện. Tham dự có 164/179 đại biểu chính thức của 45 tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc Đảng bộ huyện. Về dự và chỉ đạo đại hội có đồng chí Nguyễn Hữu Mai- Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy.

Đại hội đã nêu cao tinh thần đoàn kết, đổi mới, dân chủ, phát huy trí tuệ tập thể và ý thức trách nhiệm. Đại hội thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XIV; Báo cáo kiểm điểm công tác lãnh, chỉ đạo của Ban Chấp hành; Báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng; Báo cáo tổng hợp ý kiến tham gia đóng góp vào dự thảo các văn kiện Đại hội IX của Đảng, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII.

Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ của Đảng bộ nhiệm kỳ 2000-2005, trong đó gồm một số chỉ tiêu chủ yếu sau: Tổng thu nhập kinh tế toàn huyện tăng bình quân hằng năm 5 % - 8%; đến năm 2005, tổng sản lượng lương thực đạt 16.000 tấn; giảm tỷ lệ hộ đói nghèo mỗi năm từ 5 - 7 %. Đến năm 2005 phấn đấu giảm hộ đói nghèo xuống còn 13 %; khai hoang ruộng nước mỗi năm đạt 45 - 50 ha; trồng quế bình quân mỗi năm đạt 500.000 - 700.000 cây (quế Trà My); mở mới đường ô tô đến trung tâm 7 xã trong huyện, nâng tổng số lên 17 xã có đường ô tô đến trung tâm xã; đưa lưới điện quốc gia và điện thoại đến trung tâm 10 xã; thu ngân sách trên địa bàn huyện bình quân mỗi năm tăng 10 %; huy động học sinh trong độ tuổi ra lớp mỗi năm đạt 85 % trở lên; giảm tỷ lệ tăng dân số mỗi năm dưới 2 %; xây dựng thôn, nóc văn hóa đạt 43-51 thôn và 1/3 số thôn đạt tiêu chuẩn thôn văn hóa; xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh hàng năm đạt 60 % trở lên. Đến năm 2005 phấn đấu phát triển từ 350 đảng viên trở lên; đảm bảo công tác tuyển quân hàng năm đạt 100 %; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ 3,3 % so với dân số.

Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XV, nhiệm kỳ 2000-2005 gồm 33 đồng chí, bầu Ban Thường vụ Huyện ủy gồm 11 đồng chí. Đồng chí Huỳnh Tấn Sâm được bầu lại làm Bí thư; đồng chí Đinh Mướk và đồng chí Nguyễn Thành Vân được bầu lại làm Phó Bí thư; bầu đoàn đại biểu Đảng bộ huyện đi dự Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII gồm 13 đồng chí.

Trên cơ sở các nghị quyết của Trung ương, tỉnh, Ban Thường vụ Huyện ủy đã cụ thể hóa thành các nghị quyết về phương hướng nhiệm vụ hàng năm và nhiều nghị quyết chuyên đề khác, nhờ đó đã lãnh đạo thực hiện các mặt công tác đạt những thành tựu quan trọng.

Trên lĩnh vực nông- lâm nghiệp: huyện đã tập trung đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, con vật nuôi, chuyển giao khoa học kỹ thuật, chuyển mạnh phát triển cây lúa nước từ 1 vụ sang 2 vụ ở các xã vùng trung, cao. Đến năm 2002, toàn huyện có trên 700 ha lúa sản xuất 2 vụ (riêng vùng cao có 163/280 ha). Diện tích ruộng khai hoang, hệ thống thủy lợi được mở rộng. Trong hai năm 2001-2002, mặc dù thời tiết nắng hạn ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất, nhưng sản lượng lương thực vẫn đạt ở mức 26.604 tấn; chăn nuôi ổn định. Chương trình cải tạo vườn tạp được triển khai làm thí điểm tại xã Trà Dương và thị trấn, bước đầu thu hút 100 hộ tham gia cải tạo 60 ha.

Phong trào nuôi cá nước ngọt được nhân dân tiếp tục hưởng ứng, năm 2002, huyện đã hỗ trợ cho nhân dân các địa phương 70.000 con giống, nhiều hộ tích cực đầu tư, mở rộng diện tích ao nuôi, đem lại thu nhập đáng kể.

Hoạt động sản xuất lâm nghiệp và định canh định cư triển khai có hiệu quả. Năm 2002, qua kiểm tra, huyện đã xử lý 117 vụ vi phạm Luật quản lý bảo vệ rừng, giảm 85 vụ so với năm 2001. Đồng thời tiến hành gieo ươm, chăm sóc tốt 289.000 cây giống các loại; trồng mới 120 ha rừng trong chương trình 661 tại thị trấn Trà My và xã Trà Dương; công tác khoanh nuôi tái sinh và quản lý bảo vệ trên diện tích 4.800 ha rừng được tiến hành thường xuyên. Thực hiện tốt dự án bảo tồn giống quế địa phương, tiến hành chăm sóc tại 9 vườn với 350.000 cây giống, ngoài ra nhân dân tự gieo ươm được trên 200.000 cây.

Kinh tế trang trại, kinh tế vườn được mở rộng cả về quy mô và số lượng. Năm 2002, huyện phát triển thêm được 5 trang trại với diện tích 131 ha, nâng tổng số trang trại toàn huyện lên 25 trang trại với diện tích 485 ha.

Chương trình định canh định cư thực hiện đảm bảo tiến độ. Huyện đã tiến hành bàn giao và đưa vào sử dụng các công trình xây dựng cơ bản như công trình thuỷ lợi, cầu, đường giao thông nông thôn. Năm 2001, đầu tư xây dựng 4 công trình thủy lợi, 2 trường học, 2 công trình nước tự chảy và 5 km giao thông nông thôn; năm 2002, di dời 93 hộ ổn định lâu dài, đầu tư xây dựng 9,3 ha vườn hộ, hỗ trợ khai hoang 10 ha....với tổng vốn đầu tư là 1.531,6 triệu đồng

Xây dựng cơ bản đã huy động các nguồn vốn đầu tư, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Năm 2001, toàn huyện huy động được là 42,3 tỷ động, tăng 1,2 lần so với năm 2000; năm 2002 huy động tăng lên hơn 50 tỷ đồng, hoàn thành 32 km đường nhựa Trà My- Tắk Pỏ.

Sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp từng bước phát triển, nhất là điện thương phẩm, các ngành nghề như mộc, rèn, may mặc.

Trên lĩnh vực văn hóa xã hội có nhiều tiến bộ. Trước hết, về giáo dục- đào tạo luôn được huyện ủy quan tâm chỉ đạo thường xuyên. Chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý được nâng lên. Cơ sở vật chất, trang thiết bị từng bước được đáp ứng. Mạng lưới trường lớp được củng cố và phát triển, số lớp và số học sinh đều tăng. Kỳ thi tốt nghiệp các cấp được tổ chức tốt. Năm 2001, tỷ lệ tốt nghiệp tiểu học đạt 95,9%, trung học cơ sở đạt 99,23 %, phổ thông trung học đạt 86,4% và bổ túc văn hóa đạt 94,8%; năm 2002, tỷ lệ tốt nghiệp tiểu học đạt 96 %, trung học cơ sở đạt 99,3 %.

Phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao được duy trì với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, tạo không khí vui tươi, phấn khởi, động viên tinh thần cán bộ, đảng viên và nhân dân hăng hái thi đua lao động sản xuất và thực hiện tốt nghĩa vụ công dân. Công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở đạt kết quả. Năm 2001, huyện phát động xây dựng 6 thôn văn hóa, năm 2002 phát động thêm 8 thôn nâng tổng số thôn bản văn hóa toàn huyện lên 42 thôn, đạt 100 % kế hoạch. Trong đó, riêng năm 2002, qua tiến hành kiểm tra, Ban chỉ đạo xây dựng thôn bản văn hóa tỉnh công nhận 3 thôn văn hóa đạt tiêu chuẩn cấp tỉnh, 10 thôn văn hóa đạt tiêu chuẩn cấp huyện, 32 cơ quan văn hóa và 2.259 hộ đạt danh hiệu gia đình văn hóa.

Các chương trình y tế quốc gia về bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều chuyển biến. Công tác tuyên truyền, giáo dục nhân dân về ý thức phòng dịch bệnh và bảo vệ môi trường sống được chú trọng. Công tác kiểm tra, phát hiện các dịch bệnh được tiến hành thường xuyên, đặc biệt là đã khống chế được bệnh sốt rét. Cơ sở vật chất phục vụ khám chữa bệnh được chú trọng đầu tư, mạng lưới y tế cơ sở được củng cố. Đến năm 2002, toàn huyện có 116/116 thôn có y tế thôn bản và 100 % số xã, thị trấn có nữ hộ sinh. Đặc biệt, ngày 20.1.2003, Huyện ủy ban hành Chương trình hành động thực hiện Chỉ thị 06- CT/TW, ngày 22.1.2002 của Bộ Chính trị (khóa IX) “về việc củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở”. Đây là cơ sở để tiếp tục đẩy mạnh công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân trong những năm đến.

Công tác dân số- gia đình- trẻ em có nhiều tiến bộ, đến năm 2002, huyện đã hoàn thành đợt 4 và đợt 5 chiến dịch đưa dịch vụ chăm sóc sức khỏe và kế hoạch hóa gia đình đến vùng khó khăn 22/22 xã, thị trấn đạt kết quả tốt. Tổ chức nhiều đợt truyền thông lồng ghép các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình gắn với vận động nhân dân xóa bỏ các tập tục lạc hậu, không sinh con thứ 3. Các chỉ tiêu về dân số đều đạt và vượt so với kế hoạch đề ra, tổng các biện pháp tránh thai đạt 103 %, tỷ lệ sinh con thứ 3 giảm 3,97 % so với năm 2001. Trong năm, huyện đã tiến hành sơ kết 2 năm thực hiện Chỉ thị 55-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về tăng cường lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác chăm sóc- giáo dục trẻ em; tổng kết 10 năm thi hành Luật bảo vệ- chăm sóc- giáo dục trẻ em và tổng kết 3 năm thực hiện Quyết định 134 của Thủ tướng Chính phủ về chương trình hành động bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt giai đoạn 1999-2002.

Lĩnh vực bưu chính - viễn thông đạt được một số thành tựu đáng kể. Năm 2001, Bưu điện huyện phát triển mới trên 100 máy; Năm 2002, phát triển thêm 160 máy cố định, nâng tổng máy cố định lên 612 máy, phục vụ cho 8/22 xã, thị trấn, từng bước đảm bảo nhu cầu thông tin, liên lạc trên địa bàn và phục vụ kịp thời sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương(1).

Công tác chăm lo đời sống gia đình chính sách và đối tượng xã hội được đặc biệt quan tâm. Các chế độ, chính sách liên quan đến người có công được triển khai thực hiện theo đúng tinh thần chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Thường xuyên tổ chức các hoạt động “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”, kịp thời thăm hỏi, động viên, tặng quà, tặng sổ tiết kiệm cho các gia đình thương binh- liệt sĩ, bà mẹ Việt Nam Anh hùng, người tàn tật, neo đơn. Riêng năm 2002, huyện đã hoàn chỉnh thủ tục trình cấp thẩm quyền xem xét công nhận 508/608 hồ sơ hoạt động kháng chiến, 23/25 hồ sơ thương binh, 4 hồ sơ liệt sĩ, 11/12 hồ sơ tù đày, tiến hành quy tập 13 mộ liệt sĩ về nghĩa trang huyện. Ban hành đề án xóa đói giảm nghèo đến năm 2005 và những năm tiếp theo. Đặc biệt, nhân kỷ niệm 55 năm ngày Thương binh- Liệt sĩ (27.7.1947-27.7.2002), ngày 9.5.2002, Huyện ủy Trà My ban hành Thông tri số 14-TT/HU, về việc Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng và phong trào " đền ơn đáp nghĩa trong giai đoạn mới".

Công tác giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội luôn được giữ vững. Công tác đấu tranh phòng chống các loại tội phạm hình sự, kinh tế có nhiều cố gắng; ngăn chặn có hiệu quả tình trạng khai thác lâm- khoáng sản trái phép và sử dụng thuốc nổ, hóa chất độc hại, bảo vệ có hiệu quả môi trường sinh thái, nhất là rừng đầu nguồn.

Công tác quốc phòng luôn được chú trọng, trong đó đáng chú ý là ngày 23.10.2001, Huyện ủy đã ban hành Chỉ thị số 06-CT/HU về việc tăng cường lãnh đạo công tác quốc phòng địa phương trong tình hình mới. Ngày 4.1.2002, Huyện ủy ra Chỉ thị 07-CT/HU về nhiệm vụ Quốc phòng năm 2002 và triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 03-NQ/TU của Tỉnh ủy Quảng Nam về xây dựng Quảng Nam thành khu vực phòng thủ cơ bản, liên hoàn vững chắc, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, góp phần phát triển kinh tế xã hội của địa phương”.

Cùng với những thành tựu trong phát triển kinh tế- xã hội, tăng cường an ninh quốc phòng, Đảng bộ rất chú trọng tới việc lãnh đạo nâng cao chất lượng hoạt động của các hội, đoàn thể nhân dân. Năm 2001, Huyện ủy lãnh đạo thành công Đại hội Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Trà My lần thứ XI, nhiệm kỳ 2001-2005. Tiếp đến, năm 2002 lãnh đạo Đại hội Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh huyện lần thứ XII, Đại hội Hội Nông dân huyện lần thứ VII, Đại hội đại biểu Hội Cựu chiến binh huyện lần thứ III và tổ chức tổng kết 5 năm (1997-2002) thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết, xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”.

Công tác xây dựng Đảng được đẩy mạnh. Đi đôi với việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Đảng bộ huyện tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu- lần 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng

Công tác giáo dục chính trị tư tưởng có nhiều cố gắng, việc triển khai, quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp. Đặc biệt, thực hiện thông báo 71-TB/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về việc tăng cường lãnh đạo đổi mới công tác tuyên truyền miệng, huyện ủy ban hành Chỉ thị số 09- CT/HU, ngày 22.8.2002 về việc thành lập Ban Tuyên giáo xã, thị trấn, tuyên huấn các ngành, đoàn thể và tổ chức đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên của Đảng, góp phần đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với quần chúng.

Công tác nghiên cứu, biên soạn Lịch sử Đảng bộ được đẩy mạnh, trong đó đáng chú ý là huyện đã triển khai biên soạn Lịch sử Đảng bộ huyện Trà My giai đoạn 1945-2003.

Công tác tổ chức cán bộ chuyển biến mạnh mẽ, ngày 18.3.2002, Huyện ủy tổ chức hội nghị tổng kết việc thực hiện các nghị quyết của Trung ương về công tác tổ chức và công tác cán bộ trên địa bàn huyện thời gian qua.

Về kết quả đạt được, hội nghị nêu rõ: Kể từ khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương (khóa VII), đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII), công tác cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt luôn được coi trọng. Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo, tạo sự chuyển biến quan trọng, đảm bảo sự đồng bộ giữa đội ngũ cán bộ các vùng. Công tác qui hoạch đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá tuyển chọn, sử dụng và bố trí cán bộ được thực hiện nghiêm túc, đúng qui trình theo hướng dẫn của Trung ương và Tỉnh ủy. Huyện đã chủ động tuyển chọn học sinh trung học ở các trường nội trú huyện và tỉnh để đưa đi đào tạo, từng bước bổ sung vào đội ngũ cán bộ các cấp. Từ năm 1992 đến nay, huyện đã đào tạo 282 lượt cán bộ, đảng viên trên các lĩnh vực: pháp luật, lý luận chính trị, quản lý kinh tế, quản lý nhà nước, y tế, giáo dục...

Nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII) về chiến lược cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, lãnh đạo huyện, các ngành, cơ sở đã chủ động quy hoạch, sắp xếp, bố trí cán bộ phù hợp với năng lực công tác và từng bước đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới.

Tuy nhiên, Hội nghị cũng đã nêu lên một số tồn tại hạn chế như: Vai trò lãnh đạo của một số cấp ủy Đảng còn hạn chế; công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ nữ còn chậm; công tác sắp xếp tại tổ chức bộ máy và tinh giản biên chế thực hiện chưa đạt yêu cầu; chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, nhất là cán bộ lâu năm ở miền núi chưa được thực hiện tốt..

Tiếp tục triển khai thực hiện các Nghị quyết của Trung ương về công tác cán bộ, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII), ngày 28.5.2002, Huyện ủy Trà My ban hành Nghị quyết số 03-NQ/HU “về chiến lược công tác cán bộ giai đoạn 2002-2010". Về phương hướng xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ của huyện đến năm 2010, mà trước mắt là giai đoạn 2002-2005, Nghị quyết nêu rõ:

- Gắn đào tạo với bồi dưỡng ngắn ngày, giữa nâng cao trình độ đi đôi với năng lực thực tiễn.

- Chuẩn bị nhân sự khi có chủ trương chia tách huyện theo hướng tinh gọn, chất lượng, hiệu quả.

- Bảo đảm hàng năm có 20% cán bộ chủ chốt xã, thị trấn được đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, kiến thức về quản lý Nhà nước, chuyên môn nghiệp vụ. Đến cuối năm 2005, có 100% cán bộ chủ chốt xã đạt trình độ học vấn tốt nghiệp cấp II trở lên và trung cấp chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị. Riêng đối với cán bộ các xã Trà Đông, Trà Dương, Trà Giang, Trà Tân và thị trấn phải có 40-50% cán bộ đạt trình độ học vấn cấp III và 35-40% trung cấp về chuyên môn và cao cấp lý luận chính trị trở lên.

- Phấn đấu có 65-70 % đội ngũ cán bộ huyện đạt trình độ trung cấp trở lên, để tạo tiền đề đến cuối năm 2010, có trên 70 % đội ngũ cán bộ trưởng, phó phòng ban, đoàn thể và tương đương dưới 45 tuổi đạt trình độ đại học chuyên môn và trình độ cao cấp lý luận chính trị trở lên.

Thực hiện Quy định 76- QĐ/TW, ngày 15.6.2000 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về việc đảng viên đang công tác ở cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp thường xuyên giữ mối liên hệ với chi ủy, đảng ủy cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú, ngày 9.5.2001, Huyện ủy có Thông tri số 07-TT/HU về việc tổ chức thực hiện Quy định 76 của Bộ Chính trị. Có thể nói đây đây là chủ trương đúng đắn, góp phần tạo sự thống nhất cao trong Đảng và thắt chặt thêm mối quan hệ, gần gũi với quần chúng nhân dân.

Hoạt động kiểm tra Đảng thực hiện chặt chẽ theo Điều lệ Đảng và Chỉ thị 29-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Ủy ban kiểm tra Huyện ủy đã tổng kết công tác kiểm tra nhiệm kỳ 1996-2000 và xây dựng qui chế làm việc nhiệm kỳ 2000-2005. Kết quả kiểm tra năm 2001 có 2 tổ chức Đảng và 25 đảng viên có dấu hiệu vi phạm và đã tiến hành xử lý 14 đảng viên.

Một sự kiện nổi bật ở huyện Trà My trong những tháng đầu năm 2001 là vào ngày 27.3, huyện ủy Trà My tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm 30 năm chiến thắng cứ điểm xã Đốc (nay thuộc xã Trà Đốc), giải phóng hoàn toàn Trà My (27.3.1971-27.3.2001). Đây là lần đầu tiên huyện tổ chức lễ mít tinh kỷ niệm chiến thắng cứ điểm xã Đốc, đồng thời là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân toàn huyện, qua đó nhằm ôn lại truyền thống hào hùng, ý nghĩa chiến thắng cứ điểm xã Đốc của Tiểu đoàn đặc công 409 anh hùng và của đồng bào các dân tộc huyện Trà My. Nhân dịp này, Huyện ủy đã phát hành tập san “ Trà My-30 năm một chặng đường”.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng trên địa bàn huyện, ngày 23.10.2001, Huyện ủy Trà My đã triển khai Chương trình hành động cụ thể của Đảng bộ huyện gồm một số nội dung cơ bản sau:

- Phát triển nông nghiệp toàn diện gắn thực hiện định canh định cư và xây dựng nông thôn mới.

- Phát triển công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp- dịch vụ và du lịch đi đôi với khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và xây dựng củng cố quan hệ sản xuất.

- Thực hiện về công tác quản lý ngân sách, đảm bảo nguồn vốn đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế- xã hội.

- Phát huy nguồn lực, trọng tâm là giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, chăm lo sức khỏe nhân dân, thực hiện chính sách xã hội, giảm nhanh tỷ lệ hộ đói nghèo.

- Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện

- Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.

Thực hiện Chỉ thị 04-CT/TU, ngày 30.10.2001 của Tỉnh ủy Quảng Nam về tập trung lãnh đạo thực hiện các chương trình kinh tế nông- lâm- thủy sản trong những năm 2002-2006, ngày 10.1.2002, Huyện ủy ban hành Thông tri 11-TT/HU về việc tập trung lãnh đạo thực hiện các chương trình kinh tế nông- lâm- thủy sản trên địa bàn huyện. Trong đó mục tiêu trọng tâm là đẩy mạnh phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại; phát triển thủy lợi nhỏ và kiên cố hóa kênh mương; phát triển thủy sản...

Sau gần 3 năm triển khai thực hiện Chương trình 135/CP của Chính phủ trên địa bàn huyện tuy bước đầu đạt được một số kết quả, song vẫn còn nhiều hạn chế trong quá trình tổ chức thực hiện. Để khắc phục những hạn chế đó, ngày 22.1.2002, Huyện ủy Trà My ban hành Chỉ thị 08-CT/HU về việc đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả Chương trình 135 của Chính phủ về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trên địa bàn huyện trong những năm đến. Trong đó chú trọng việc củng cố, phát huy vai trò trách nhiệm và tăng cường hoạt động của Ban quản lý dự án; thực hiện nghiêm túc qui trình công khai, dân chủ trong việc thực hiện các hạng mục công trình, dự án Chương trình. Thực hiện tốt phương châm “ Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, “Xã có công trình, dân có việc làm, tăng thu nhập”. Sau khi có chỉ thị, việc triển khai Chương trình 135/CP trên địa bàn huyện đạt được một số kết quả khả quan. Đến năm 2003, số vốn được đầu tư cho dự án xây dựng cơ sở hạ tầng và xây dựng trung tâm cụm xã hơn 48 tỷ đồng; dự án ổn định sản xuất nông lâm nghiệp gắn liền với chế biến tiêu thụ sản phẩm với số vốn trên 650 triệu đồng và dự án hỗ trợ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn với số vốn hơn 1,1 tỷ đồng. Trong đó, đã đầu tư xây dựng và mở mới trên 30 công trình giao thông, đưa số xã có đường ô tô đến trung tâm xã là 15/22 xã, thị trấn; xây dựng 6 công trình thuỷ lợi, nâng tổng số diện tích lúa nước được tưới tiêu lên 40 ha; xây dựng được 41 phòng học các loại. Ngoài ra, chương trình 135 còn đầu tư xây dựng 1 nhà đặt trậm phát lạI truyền hình, 1 trạm y tế, trường phổ thông dân tộc nội trú ở trung tâm cụm xã Tắc Chanh, xã Trà Don và trung tâm cụm xã Tắc Pỏ, xã Trà Mai... Nhờ vậy đã đáp ứng một phần bức xúc về cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã đặc biệt khó khăn, tạo điều kiện hỗ trợ xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn phát triển.

Thực hiện Chỉ thị 359/TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường bảo vệ và phát triển động vật hoang dã và Pháp lệnh bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, ngày 14.1.2002, Huyện ủy ban hành Thông tri số 12-TT/HU về việc tăng cường công tác bảo vệ, quản lý động vật hoang dã qúy hiếm và nghiêm cấm dùng chất độc, chất nổ, xung điện đánh bắt thủy sản. Đây là biện pháp nhằm góp phần bảo vệ nguồn tài nguyên rừng và thủy sản, bảo vệ môi trường sinh thái.

Trước tình hình phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc ở một số nơi, một số lĩnh vực chưa đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, nhất là trên lĩnh vực quản lý lâm- khoáng sản, mua bán, vận chuyển hóa chất độc hại, dịch vụ văn hoá, tôn giáo, hoạt động tội phạm còn phức tạp, gây lo lắng trong nhân dân, ngày 5.3.2002, Huyện ủy Trà My ban hành Chỉ thị số 10/CT-HU “về việc lãnh đạo, xây dựng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới". Đây là chủ trương nhằm phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc trên mặt trận bảo vệ an ninh Tổ quốc, giữ vững, ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở địa phương và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thực hiện Nghị định số 27/CP, ngày 21.3.2002 của Chính phủ về việc chia tách một số đơn vị hành chính, theo đó, xã Trà Giáp được chia thành hai đơn vị hành chính gồm xã Trà Giáp và xã Trà Ka. Sau khi chia tách, Huyện ủy có quyết định thành lập Đảng bộ lâm thời xã Trà Giáp và chi bộ lâm thời xã Trà Ka.

Ngày 2.5.2002, Chủ tịch nước ký quyết định tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba cho cán bộ và nhân dân huyện Trà My vì đã có thành tích xuất sắc trong các mặt công tác, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đây là niềm cỗ vũ lớn lao, góp phần động viên cán cộ, đảng viên và nhân dân trong huyện vượt qua khó khăn, hoàn thành tốt các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội địa phương trong những năm đến.

Ngày 20.5.2002, Huyện ủy Trà My ban hành Thông tri số 16/TT-HU về việc "lãnh đạo thực hiện cuộc vận động xây dựng người cán bộ, công chức, viên chức "Trung thành - sáng tạo - tận tụy - gương mẫu". Đây là một cuộc vận động mang tính thiết thực nhằm xây dựng người cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong thời kỳ cách mạng mới.

Thực hiện Qui định 19-QĐ/TW của Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm, ngày 20.8.2002, Huyện ủy Trà My tổ chức hội nghị đánh giá kết quả kiểm tra việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện qui định về những điều đảng viên không được làm. Chủ trương này của Trung ương đã được các cấp ủy Đảng cũng như nhân dân rất tán thành và nhất trí cao. Kết quả kiểm tra cho thấy việc thực hiện qui định về những điều đảng viên không được làm đã góp phần nâng cao tính kỷ luật của Đảng, mỗi đảng viên chấp hành nghiêm các nội dung của quy định sẽ tạo nên sức mạnh đoàn kết thống nhất cũng như tăng cường sự trong sạch vững mạnh của tổ chức Đảng. Tuy nhiên, một số tổ chức cơ sở Đảng trong quá trình triển khai thực hiện Qui định 19 chưa sâu rộng, thiếu sự kiểm tra đôn đốc thực hiện, một số đảng viên nhận thức về những điều đảng viên không được làm còn mơ hồ, chấp hành không nghiêm túc dẫn đến vi phạm.

Ngày 22.8.2002, Huyện ủy Trà My có Quyết định số 507- QĐ/HU về việc ban hành qui chế tổ chức lễ tang đối với cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước; cán bộ xã, thị trấn; người có công với cách mạng khi từ trần. Việc ban hành qui chế là góp phần thực hiện Chỉ thị 27- CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội, thể hiện sự trân trọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với công lao, công hiến của cán bộ, công chức, viên chức và những người có công với cách mạng trong quá trình hoạt động cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vừa tiết kiệm, vừa phù hợp với truyền thống của dân tộc và nếp sống văn minh.

Tiếp tục thực hiện các nghị quyết của Trung ương Đảng về công tác dân vận, mặt trận đoàn thể, dân tộc, tôn giáo trong thời kỳ mới, ngày 26.8.2002, Huyện ủy Trà My tổ chức hội nghị tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) và đề ra phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp công tác dân vận đến năm 2005. Trên cơ sở kết quả đạt được, hội nghị đề ra phương hướng nhiệm vụ đến năm 2005 bao gồm một số nội dung sau:

- Tiếp tục quán triệt các quan điểm của Đảng về công tác vận động quần chúng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng ( khoá VI). Tập trung vận động nhân dân hăng hái thi đua thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế- xã hội.

- Phát huy sức mạnh tổng hợp của công tác dân vận trong hệ thống chính trị, tăng cường thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân, tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của mặt trận và các đoàn thể.

- Tăng cường sâu sát cơ sở, tiếp xúc lắng nghe ý kiến nguyện vọng nhân dân, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân, thống nhất ý chí hành động, củng cố mở rộng cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, đoàn kết quyết tâm xây dựng quê hương giàu mạnh.

Thực hiện Nghị quyết 02- NQ/TU của Tỉnh ủy Quảng Nam về xây dựng và phát triển giao thông nông thôn trên địa bàn tỉnh, ngày 6.11.2002, Huyện ủy đề ra Chương trình hành động về đẩy mạnh phát triển giao thông nông thông trên địa bàn huyện trong những năm đến, trong đó tập trung:

- Từng bước hoàn thiện qui hoạch tổng thể và qui hoạch chi tiết hệ thống giao thông nông thôn trong qui hoạch phát triển cơ sở hạ tầng. Đảm bảo cho các loại xe cơ giới hoạt động thường xuyên trên tuyến Trà My- Tắk Pỏ và các tuyến đường huyện, phục vụ nhu cầu đi lại, đời sống của đồng bào vùng sâu, vùng xa.

- Tiếp tục tạo ra sự chuyển biến tư tưởng, nhận thức về tầm quan trọng của giao thông nông thôn miền núi trong toàn Đảng bộ, phát huy tinh thần nội lực, đẩy mạnh phong trào giao thông nông thôn với phương châm “ Nhà nước và nhân dân cùng làm”.

- Phát triển giao thông nông thôn gắn liền với phát triển kinh tế- văn hóa- xã hội, quốc phòng an ninh, với các chương trình mục tiêu quốc gia, góp phần hỗ trợ đắc lực cho chương trình xóa đói giảm nghèo, định canh định cư, phát triển nông nghiệp và nông thôn tại địa phương.

Nhằm đẩy mạnh thực hiện các Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX), ngày 6.11.2002, Huyện ủy có Chương trình hành động số 13- Ctr/HU “về đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, giai đoạn 2002-2005 và 2010, Chương trình hành động số 14/Ctr-HU “về đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị cơ sở xã, thị trấn” và Chương trình hành động số 15/Ctr-HU, ngày 20.12.2002, về "Nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới” (1).

Ngày 20.6.2002, Huyện uỷ Trà My đã tổ chức Hội nghị nhằm để tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) và Kết luận của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về giáo dục- đào tạo.

Báo cáo tại hội nghị cho thấy sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII), mạng lưới trường lớp tiếp tục mở rộng; tỷ lệ trẻ em 6 tuổi vào lớp 1 trong năm học 2001-2002 đạt 97,8 %, tăng 11 % so với năm học 1997-1998; số lượng lớp và học sinh tăng bình quân 17,4 %; chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên, công nhân viên tăng lên đáng kể. Nếu như năm học 1997-1998, toàn huyện có 716 cán bộ, giáo viên, công nhân viên với 37 % đạt chuẩn về chuyên môn, thì đến năm học 2001-2002 toàn huyện có 1.113 cán bộ, giáo viên, công nhân viên, trong đó có 83 % đạt chuẩn về chuyên môn, tăng 46 %.

Chất lượng giáo dục có sự chuyển biến tích cực, nhiều hình thức, phương pháp, biện pháp giáo dục đa dạng, phong phú. Đối với bậc tiểu học, các trường đều triển khai dạy đủ 9 môn. Huyện đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học ở 22/22 xã, thị trấn. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp hàng năm đạt trên 95 %; đối với bậc trung học, số học sinh ngày càng tăng. Trong 5 năm, toàn huyện có 860 học sinh tốt nghiệp, trong đó có trên 200 học sinh đổ vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp.

Việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị được chú trọng. Trong 5 năm, toàn huyện đã đầu tư xây dựng hơn 60 phòng học bán kiên cố, 74 phòng học kiên cố với trị giá gần 8 tỷ đồng.

Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và xây dựng Đảng trong trường học được Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo thường xuyên. Nếu như năm 1997, toàn ngành giáo dục huyện có 69 đảng viên, chiếm tỷ lệ 9,6 %, đến năm 2002, toàn ngành có 147 đảng viên, đạt tỷ lệ 13,2 %. Địa phương làm tốt nhất công tác này là thị trấn Trà My, xã Trà Tập, Trà Mai và Trà Dương.

Tuy nhiên, Hội nghị cũng nêu một số tồn tại như: một số chỉ tiêu chưa đạt; chỉ số huy động và duy trì sỹ số học sinh ở các xã vùng trung, vùng cao có thời điểm còn thấp; kết quả phổ cấp giáo dục tiểu học và xóa mù chữ chưa vững chắc; chất lượng giáo dục chưa cao, công tác quản lý còn nhiều bất cập; việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất còn hạn chế; công tác phát triển Đảng trong trường học tuy có nhiều cố gắng nhưng tỷ lệ vẫn còn thấp...

Những thành tựu đạt được và những hạn chế của công tác giáo dục đào tạo trong 5 năm qua là cơ sở để Đảng bộ tiếp tục chỉ đạo ngành giáo dục huyện tổ chức thực hiện có kết quả các chỉ tiêu, nhiệm vụ trong những năm đến, thúc đẩy sự nghiệp giáo dục đào tạo của địa phương ngày càng phát triển.

Một trong những sự kiện quan trọng của Đảng bộ Trà My trong năm 2003 là lãnh đạo thực hiện tốt việc chia tách huyện theo Nghị định số 72/2003/NĐ-CP, ngày 20.6.2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc chia huyện Trà My thành hai đơn vị hành chính mới là huyện Nam Trà My và Bắc Trà My. Việc chia tách huyện Trà My là phù hợp với yêu cầu và nguyện vọng chính đáng của Đảng bộ, nhân dân địa phương, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng của huyện Nam Trà My và Bắc Trà My

Huyện Bắc Trà My có diện tích tự nhiên gồm 82.325 ha với dân số là 36.366 nhân khẩu, có 12 đơn vị hành chính trực thuộc gồm: Trà Đông, Trà Dương, Trà Giang, Trà Nú, Trà Kót, Trà Tân, Trà Đốc, Trà Bui, Trà Giác, Trà Giáp, Trà Ka và thị trấn Trà My. Huyện lỵ đặt tại thị trấn Trà My.

Huyện Nam Trà My có diện tích tự nhiên gồm 82.235 ha với dân số 19.876 nhân khẩu, có 10 đơn vị hành chính trực thuộc gồm: Trà Don, Trà Leng, Trà Vân, Trà Vinh, Trà Tập, Trà Dơn, Trà Nam, Trà Cang, Trà Mai và Trà Linh. Huyện lỵ đặt tại Tăk Pỏ, xã Trà Mai

Để triển khai và thực hiện Nghị định 72/2003/NĐ-CP kịp thời và đạt kết quả, ngày 7.7.2003, Huyện ủy Trà My ban hành Chỉ thị 13/CT-HU về việc lãnh đạo các cấp ủy Đảng, chính quyền, hội đoàn thể từ huyện đến cơ sở thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm và cấp bách.

Ngày 15.7.2003, Tỉnh ủy Quảng Nam ra quyết định chỉ định Ban chấp hành Đảng bộ lâm thời huyện Bắc Trà My và huyện Nam Trà My. Ban chấp hành Đảng bộ lâm thời huyện Bắc Trà My gồm 27 đồng chí, Ban Thường vụ gồm 9 đồng chí, do đồng chí Huỳnh Tấn Sâm làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa- Phó bí thư Thường trực, đồng chí Nguyễn Thành Vân- Phó Bí thư, Chủ tịch ủy ban nhân dân lâm thời huyện. Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời huyện Nam Trà My gồm 27 đồng chí, Ban Thường vụ gồm 9 đồng chí, do đồng chí Đinh Mướk làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Thanh Tòng- Phó Bí thư Thường trực, đồng chí Hồ Văn Ny- Phó Bí thư, Chủ tịch ủy ban nhân dân lâm thời huyện.

Ngày 18.7.2003, Ban Chỉ đạo chia tách huyện đã có hướng dẫn số 03 về việc tuyên truyền và tổ chức lễ tiễn đưa lãnh đạo, cán bộ lên công tác tại huyện Nam Trà My.

Ngày 24.7.2003, lễ công bố Nghị định số 72/2003/NĐ-CP, ngày 20.6.2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc chia huyện Trà My thành hai đơn vị hành chính mới là huyện Nam Trà My và Bắc Trà My được tổ chức trọng thể tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện.

Sáng ngày 1.8.2003, Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban Nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện Bắc Trà My tổ chức lễ tiễn đưa cán bộ, đảng viên huyện Nam Trà My lên công tác tại huyện lỵ mới.

Trong lễ tiễn đưa cán bộ, công chức, chiến sĩ huyện Nam Trà My, đồng chí Huỳnh Tấn Sâm- Bí thư huyện ủy lâm thời huyện Bắc Trà My phát biểu nhấn mạnh: Đảng bộ và nhân dân huyện Bắc Trà My luôn luôn ghi nhớ ơn sâu nghĩa nặng của đồng bào, đồng chí huyện Nam Trà My và đồng bào cả nước đã đùm bọc giúp đỡ, đã cống hiến sức người, sức của cho sự nghiệp cách mạng của quê hương.

Những công trình văn hóa và kinh tế, những con đường mà ta đang đi hôm nay, mỗi ngôi nhà đã được xây dựng trong gần 30 năm qua đều có mồ hôi, công sức của đồng bào, đồng chí Nam Trà My, cũng như của anh em bạn bè gần xa.

Đảng bộ và nhân dân Bắc Trà My luôn luôn thông cảm, sẳn sàng chia sẻ những khó khăn của Đảng bộ và nhân dân Nam Trà My trong thời kỳ đầu xây dựng một đơn vị hành chính mới như chúng ta đã từng chia lửa, góp máu trong chiến đấu.

Chúng ta tin tưởng rằng các cấp ủy Đảng, chính quyền, các đoàn thể, các tổ chức kinh tế và xã hội, cấc tầng lớp nhân dân hai huyện Bắc Trà My và Nam Trà My sẽ có nhiều hình thức giao lưu, kết nghĩa, hợp tác hỗ trợ lẫn nhau để cùng phát triển đi lên.

Với tất cả tình đồng chí chân thành, tình anh em ruột thịt, chúng ta nhiệt liệt chúc mừng và tin tưởng một thời kỳ mới đầy triển vọng đang mở ra với đồng chí, đồng bào huyện Nam Trà My.

" Dù cho sông cạn đá mòn

Trà My Nam- Bắc là con một nhà"

Xin chúc các đồng chí lên đường sức khỏe và thắng lợi !

Tiếp sau lời phát biểu của lãnh đạo huyện Bắc Trà My, đồng chí Đinh Mướk- Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy lâm thời huyện Nam Trà My phát biểu nêu rõ: “Đối với mỗi cán bộ, chiến sĩ huyện Nam Trà My, cuộc chia tay hôm nay là niềm vinh dự lớn lao, là sức mệnh lịch sử cao cả. Chúng ta là những người đi tiên phong lên đường xây dựng quê hương mới... Từ ngày hôm nay, nhiều gia đình có người ở, người đi, nhiều cơ quan có người ở, người đi và có những cộng đồng dân cư co công dân lên đường đi Nam Trà My công tác, mà phía trước là muôn vàn gian lao và thử thách. Mỗi cán bộ, công chức hôm nay lên đường đều có hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh bản thân khác nhau, nhiều gia đình rất khó khăn, nhiều anh chị em phơi phới tuổi thanh xuân, nhưng cũng có anh chị trên đấu đã mang hai thứ tóc. Tuy khó khăn là thế, nhưng khi được sự phân công của tổ chức, các đồng chí đều sẳn sàng lên đường nhận nhiệm vụ. Tôi xin gửi lời biết ơn đến những người mẹ, người cha, người vợ, người chồng, những con đã hy sinh tình cảm riêng tư, động viên người thân lên đường xây dựng quê hương mới Nam Trà My”

Tại buổi lễ trọng thể này, thay mặt Đảng bộ, chính quyền, ủy ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện Nam Trà My xin gửi tới các đồng chí lãnh đạo huyện, đến bà con đồng bào huyện Bắc Trà My niềm tin tưởng của chúng tôi với tình cảm sâu nặng, thủy chung giữa hai huyện chúng ta, Bắc Trà My thật sự là hậu phương bao la và vững chắc.

Chia tay nhé ! Bắc Trà My yêu dấu

Chúng tôi lên đường làm người lính tiên phong

Quê hương mới Nam Trà My vẫy gọi

Bài ca mở đường giục giã non sông

Takxa, TakLeng- Hai dòng sông ranh giới

Chia đôi miền Nam- Bắc Trà My

Có hề chi dù không gian cách biệt

Ta vẫn bên nhau đâu có cuộc chia ly

Xin chào tạm biệt !

Đến dự lễ tiễn đưa cán bộ lên công tác ở huyện Nam Trà My, đồng chí Hồ Thị Thanh Lâm- Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam thay mặt cho lãnh đạo tỉnh phát biểu ý kiến, trong đó nhấn mạnh: Mục tiêu của việc thực hiện chia tách huyện theo Nghị định số 72/2003/NĐ-CP ngày 20.6.2003 của Chính phủ làm nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội của cả tỉnh nói chung và miền núi, vùng cao Trà My nói riêng. Với việc hình thành hai đơn vị hành chính độc lập, sẽ tạo đIều kiện để hai huyện Nam và Bắc Trà My tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đẩy manh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa, thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội, xóa đói giảm nghèo, từng bước ổn định, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.

Để thực hiện được mục tiêu đó, thì dù trong bề bộn những công việc, với không ít khó khăn, vất vả và những nổi lo toan khi xa gia đình trong những ngày đầu mới chia tách, nhưng tôi đề nghị các đồng chí lãnh đạo, cán bộ, công chức, viên chức huyện Nam Trà My phải phát huy mạnh mẽ tinh thần đoàn kết, trên dưới một lòng, quyết tâm, nỗ lực vượt qua khó khăn để nhanh chóng ổn định cuộc sống ở nơi mới, củng cố tổ chức, tập trung chỉ đạo thực hiện hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội năm 2003 trên địa bàn và xây dựng qui hoạch tổng thể về phát triển kinh tế- xã hội của huyện từ năm 2004 đến 2005 và 2010.

Tôi mong rằng với tình cảm gắn bó thân thiết của anh em một nhà, lãnh đạo và các ban ngành, đoàn thể huyện Bắc Trà My sẽ tiếp tục dành cho các ban, ngành, đoàn thể của huyện Nam Trà My sự quan tâm, chia xẻ và sự giúp đỡ chân tình trong điều kiện và khả năng của mình..."

Đúng 10 giờ cùng ngày, lễ đón đoàn cán bộ lên công tác tại huyện mới được tổ chức trọng thể tại Tăk Pỏ, xã Trà Mai (trung tâm huyện lỵ).

Từ đây, tuy Đảng bộ và nhân dân hai huyện bắt tay vào xây dựng quê hương của mình nhưng những tình cảm cùng truyền thống quý báu của huyện Trà My được xây dựng trong suốt chiều dài lịch sử vẫn được hai Đảng bộ và nhân dân hai huyện giữ gìn và phát huy như nguồn lực tinh thần vô giá.

Có thể nói, sau gần 3 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện khóa XV, mặc dù trong điều kiện thời tiết nắng hạn, lũ lụt, dịch bệnh hoành hành tác động không nhỏ đến sản xuất và đời sống nhân dân, song Đảng bộ đã lãnh đạo thực hiện thắng lợi một số mục tiêu do Đại hội Đảng bộ huyện đề ra. Nền kinh tế của huyện có sự tăng trưởng, các tiến bộ khoa học kỹ thuật dẫn dần chuyển giao và áp dụng vào thực tiễn sản xuất, chăn nuôi tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa có giá trị kinh tế; các mô hình kinh tế nông - lâm kết hợp như: kinh tế trang trại, vườn đồi, vườn rừng, trồng cây nguyên liệu (đặc biệt là cây sâm Ngọc Linh và cây quế)...ngày càng khẳng định tính đúng đắn và hiệu quả.

Tốc độ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tăng nhanh, từng bước tạo chuyển biến tích cực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.

Trên lĩnh vực văn hóa xã hội đạt được nhiều thành tựu: Công tác xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh, chất lượng dạy và học có nhiều chuyển biế; công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng, dịch bệnh lớn không xảy ra, đặc biệt là bệnh sốt rét được khống chế; công tác xây dựng thôn bản văn hóa, cơ quan văn hóa được triển khai thực hiện và đạt kết quả nhất định, góp phần ngăn chặn và từng bước đẩy lùi các tệ nạn xã hội, tập tục lạc hậu, tạo môi trường văn hóa lành mạnh trong cơ quan và cộng đồng dân cư. Các chế độ chính sách liên quan đến người có công và đối tượng xã hội được thực hiện nghiêm túc; hoạt động nhân đạo, từ thiện được các cấp, các ngành quan tâm, từng bước thực hiện xã hội hóa về chăm sóc các đối tượng xã hội.

Lĩnh vực an ninh quốc phòng được giữ vững. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc được phát động mạnh mẽ, giữ vững ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện. Chỉ tiêu tuyển quân hàng năm đạt 100 % kế hoạch.

Hệ thống chính trị tiếp tục được củng cố và kiện toàn; năng lực quản lý, điều hành của các cấp chính quyền, mặt trận, đoàn thể được nâng lên rõ rệt, dân chủ cơ sở được phát huy; vai trò lãnh đạo của Đảng được khẳng định trên mọi mặt đời sống xã hội.

Tuy đạt được một số thành tựu quan trọng, song quá trình triển khai thực hiện nghị quyết vẫn còn một số hạn chế trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương. Kinh tế của huyện tuy có phát triển nhưng chưa vững chắc, còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan, an toàn lương thực chưa đảm bảo; tỷ lệ hộ đói nghèo vẫn còn ở mức cao (41,32%). Chất lượng dạy và học ở các cấp học chưa đều, tình trạng học sinh bỏ học giữa chừng còn chiếm tỷ lệ khá cao (năm học 2001-2002 là 3,17%) nhưng chưa có biện pháp khắc phục hữu hiệu. Y học dân tộc cổ truyền chưa được phát huy đúng mức so với tiềm năng của huyện; còn xem nhẹ việc giữ gìn vệ sinh môi trường, nhất là ở khu vực đông dân cư. Tình trạng săn bắn trái phép động vật hoang dã, qúy hiếm và xung điện hủy diệt nguồn lợi thủy sản vẫn còn xảy ra; ban công an cơ sở ở một số địa phương còn yếu về chuyên môn và ý thức trách nhiệm. Mối quan hệ phối hợp công tác giữa chính quyền, mặt trận, đoàn thể các cấp một số nơi chưa chặt chẽ nên hiệu quả công tác còn hạn chế. Một số cấp ủy Đảng ở cơ sở hoạt động thiếu chương trình, kế hoạch, một số đồng chí lãnh đạo chủ chốt cấp xã còn vi phạm Điều lệ Đảng, các qui định của Nhà nước, gây ảnh hưởng đến uy tín và vài trò lãnh đạo của Đảng tại địa phương.

Những thành tựu đạt được trong thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới (1986-2003) nói chung và từ ngày tỉnh Quảng Nam được tái lập (1997-2003) nói riêng tạo ra thế và lực mới để Đảng bộ và nhân dân Nam Trà My, Bắc Trà My vượt qua khó khăn thử thách trong những năm đến, phấn đấu giành nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa, xứng đáng với truyền thống anh hùng mà Đảng và Nhà nước phong tặng, từng bước xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, phấn đấu vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”

Nằm trên dãy Trường Sơn hùng vĩ, núi rừng Trà My mang đầy đủ đặc điểm đặc trưng của vùng núi sườn đông Trường Sơn. Địa hình Trà My khá phức tạp nhưng đó lại là điều kiện cho sự phát triển của nhiều thảm thực vật và tạo nên sự đa dạng về cơ cấu cây trồng, con vật nuôi. Trà My có nhiều sông, suối có tiềm năng phát triển thuỷ điện. Đồng bào các dân tộc thiểu số ở Trà My luôn yêu núi rừng, làng, nóc và giàu truyền thống văn hóa.

Trà My cũng là một địa bàn chiến lược quan trọng, nối thông với nhiều địa bàn miền núi, hình thành thế trận liên hoàn, đặc biệt với Tây Nguyên... Chính vì thế, các thế lực xâm lược và tay sai tìm mọi cách quản lý địa bàn Trà My để từ đó khống chế đồng bào các dân tộc thiểu số ở địa phương, đồng thời làm bàn đạp để mở rộng ảnh hưởng các địa phương lân cận. Về phía ta, trong các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, chính lòng người và thế đất Trà My đã cho phép chọn nơi đây tạo nên lũy thành cách mạng của các địa phương ven biển miền Trung và Tây Nguyên.

Những năm tháng dưới ách thống trị của thực dân, đế quốc, cũng như nhân dân cả nước, nhân dân các dân tộc thiểu số huyện Trà My thường xuyên bị áp bức, bóc lột và đã liên tiếp nổi dậy đánh thực dân, đế quốc và tay sai, tiêu biểu là tham gia phong trào Nghĩa hội 1885- 1887, phong trào Nước Xu vào các năm 1937-1938... Các cuộc đấu tranh này tuy xảy ra trong từng làng, từng vùng và mức độ có khác nhau nhưng thể hiện được tinh thần đấu tranh bất khuất, kiên cường, thể hiện tình yêu bản làng, núi rừng, lòng thiết tha mong ước một cuộc sống độc lập, tự do của đồng bào các dân tộc thiểu số huyện Trà My.

Tháng Tám năm 1945, nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đã vùng lên quật đổ ách thống trị của đế quốc và phong kiến, giành lại độc lập, tự do. Từ đó nhân dân các dân tộc Trà My bắt đầu biết đến Đảng, đến Bác Hồ. Đảng bộ và các cơ quan chức năng của tỉnh đã có nhiều chủ trương và biện pháp để sớm đưa chủ trương của Đảng đến với đồng bào. Kết quả, một thời gian sau, huyện Trà My và Đảng bộ Trà My được thành lập. Thấy được công lao của Đảng và Bác Hồ thông qua những việc làm cụ thể của cán bộ người Kinh lên công tác, đồng bào các dân tộc thiểu số đã dốc lòng, dốc sức phục vụ kháng chiến. Đây cũng là thời kỳ lịch sử mà người Xơ đăng, Cor, Ca dong, Bh'noong... ở Trà My vươn lên mạnh mẽ nhiều mặt; khối đoàn kết dân tộc bước đầu được tăng cường và củng cố; lực lượng vũ trang, dân quân, du kích được xây dựng và phát triển; tăng gia sản xuất trở thành một phong trào cách mạng rộng rãi. Phong trào dạy và học văn hóa đạt nhiều thanh tựu đáng phấn khởi. Vùng thấp từ chỗ lệ thuộc vào kinh tế của đồng bằng, đã chuyển sang tự cung tự cấp. Nhiều con em đồng bào các dân tộc thiểu số được kết nạp vào Đảng.

Bước sang cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, phong trào cách mạng ở Trà My gặp nhiều thử thách do địch đánh phá. Bọn chúng không từ một thủ đoạn, âm mưu nào để đàn áp phong trào cách mạng của địa phương. Đặc biệt chúng tiến hành các cuộc càn quét có quy mô lớn; dùng bom B.52 và bom toạ độ rải thảm; rải chất độc hoá học, gây nhiều thiệt hại lớn về môi trường, hoa màu và sức khoẻ của nhân dân. Bên cạnh đó, địch thường xuyên tung biệt kích dò la, thậm chí cài tay chân vào hàng ngũ ta để nắm tình hình của ta. Tuy nhiên, mọi âm mưu thủ đoạn xảo quyệt và tàn bạo của chúng vẫn không thể khuất phục được tấm lòng của đồng bào các dân tộc ở huyện Trà My. Đảng bộ Trà My đã động viên và lãnh đạo quần chúng nhân dân địa phương đoàn kết một lòng, đi theo Đảng và Bác Hồ đến cùng, tiến hành cuộc đấu tranh cực kỳ gian khổ, hy sinh. Truyền thống đoàn kết dân tộc, truyền thống yêu nước và cách mạng được phát huy và củng cố vững chắc hơn, tạo nên sức mạnh không gì lay chuyển nổi. Những năm 1954-1959, nếu các địa phương ở đồng bằng và giáp ranh bị địch đánh phá dã man, phong trào và tổ chức gặp nhiều tổn thất thì phong trào cách mạng ở Trà My cũng như các địa phương miền núi cơ bản được giữ vững. Năm 1959, Trà My là địa phương sớm tiếp thu Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) và từ đó chuyển sang vừa làm nhiệm vụ đánh địch trên địa bàn, xây dựng và bảo vệ vùng căn cứ cách mạng vừa hỗ trợ cho tỉnh, cho khu và các địa phương bạn... Cuộc kháng chiến của Trà My đã mang tính toàn diện, đáp ứng được yêu cầu là một căn cứ địa. Sản xuất nông nghiệp được coi là một nhiệm vụ trung tâm. Các phong trào hợp tác tương trợ lao động, vỡ ruộng, làm nà, tăng gia sản xuất chống cứu đói với khẩu hiệu “Địch phá một ta làm gấp năm lần, mười lần..”được nhân dân hưởng ứng. Bom rơi, đạn nổ, chất độc rải khắp núi rừng, nương rẫy nhưng sản xuất vẫn không đình trệ. Vai trò của chính quyền nhân dân, mặt trận, các đoàn thể được phát huy hết khả năng. Việc đấu tranh xóa bỏ các hủ tục được chú ý hơn. Phong trào giáo dục, công tác y tế.. phát triển mạnh. Nhiều con em dân tộc thiểu số ở địa phương được Đảng chăm lo đào tạo thành những cán bộ có trình độ chính trị và năng lực công tác. Lực lượng vũ trang, dân quân du kích giữ vị trí quan trọng trong cuộc chiến đấu bảo vệ quê hương căn cứ địa cách mạng, tiêu hao sinh lực địch và phục vụ chiến trường.

Điều đáng ghi nhận là Đảng bộ và nhân dân Trà My đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ góp phần giữ vững căn cứ địa của Khu V. Có thời điểm trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trên đất Trà My có 50 cơ quan cấp khu và hơn 10.000 cán bộ, nhân viên của khu làm việc. Cùng với các cơ quan và lực lượng đó là các tuyến đường giao liên, thiết bị vô tuyến, kho tàng... Nhận thức đầy đủ ý nghĩa của vùng căn cứ, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Trà My đã làm hết sức mình để bộ máy lãnh đạo của khu được an toàn, đồng thời cung cấp lương thực, thực phẩm cho các cơ quan của khu, nhất là khi địch tăng cường đánh phá, các đường tiếp tế bị gián đoạn. Nguyên nhân của công tác bảo vệ căn cứ thành công là nhờ đồng bào các dân tộc Trà My có tinh thần đoàn kết chống địch cao, tất cả đều hướng theo Đảng và Bác Hồ. Đó là nhờ sự giáo dục, động viên của Đảng bộ huyện, sự phối hợp của các lực lượng có liên quan.

Các con số dưới đây cho thấy sức người, sức của mà nhân dân các dân tộc Trà My đóng góp cho cuộc kháng chiến chống Mỹ là rất lớn. Về lương thực, thực phẩm, đóng góp 372.000 ang lúa, 132.000 ang bắp, 165.000 ang sắn khô, 3.296.000 gốc sắn củ, 15 tấn gạo và nếp. Về nhân lực, góp 21.000 công mở hành lang vận chuyển vũ khí, 267.000 công tham gia vận chuyển vũ khí, 87.000 công mở hành lang vận chuyển bằng ôtô, 23.000 công phục vụ cho hậu cần tác chiến, 23.000 công phục vụ cho cơ quan của khu; tổng cộng 388.000 công, bình quân mỗi năm 38.000 công. Nhân dân Trà My còn tham gia mở 50 km đường giao liên Nam Bắc, 15 con đường lớn nhỏ nối căn cứ của khu đến một số huyện đồng bằng, mỗi con đường dài ít nhất 30 km. Trên lĩnh vực vũ trang đánh địch, nhân dân và lực lượng vũ trang Trà My đã đánh 120 trận, diệt 1.379 tên địch, làm bị thương 563 tên, bắn rơi 16 máy bay, bắn bị thương 17 chiếc; đánh chi viện vào cứ điểm Phước Lâm và quận lỵ Tiên Phước, diệt 150 tên địch me="_ftnref53">(1).

Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, Trà My là một trong những huyện nghèo nhất tỉnh Quảng Nam. Thế nhưng nhờ phát huy truyền thống cách mạng của quê hương, 28 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc Trà My đã từng bước vượt qua mọi khó khăn gian khổ, xác định được những nhiệm vụ cụ thể, phù hợp cho từng thời kỳ, từng vùng, từng lĩnh vực và đạt nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Trên mặt trận sản xuất nông- lâm nghiệp, đã từng bước thực hiện có hiệu quả việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, con vật nuôi, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Diện tích lúa nước được mở rộng đáng kể, chăn nuôi phát triển khá. Việc chăm sóc, trồng mới, bảo vệ vốn rừng được chú ý đúng mức. Các loại cây trồng truyền thống, nhất là cây quế, sâm Ngọk Linh được mở rộng diện tích và góp phần đáng kể tăng nguồn thu nhập cho địa phương. Các cơ sở công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp, nhất là các cơ sở chế biến hàng nông- lâm sản được xây dựng, gía trị hàng năm tăng 4,8 %. Từ chỗ không có điện, đến nay nhiều xã đã có điện lưới quốc gia. Thông tin liên lạc ngày một mở rộng. Đầu tư kết cấu hạ tầng tăng gấp nhiều lần. Chỉ tính từ năm 1995 đến năm 2000, gía trị đầu tư tăng gấp 20 lần. Hệ thống giao thông từng bước mở rộng và nâng cấp. Việc đi lại của nhân dân thuận lợi nhiều so với trước. Chương trình 135 đã góp phần thay đổi cơ sở hạ tầng ở các xã đặc biệt khó khăn. Lĩnh vực văn hóa- xã hội được chăm lo xây dựng. Từ chỗ đại đa số nhân dân bị mù chữ thì nay đã cơ bản hoàn thành chương trình xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Trường học được xây dựng kiên cố đã thay dần trường bằng tranh, tre, vách nứa. Bệnh, dịch cơ bản được thanh toán. Các hoạt động văn hóa- văn nghệ, thể dục, truyền thanh- truyền hình, điện ảnh có nhiều cố gắng, địa bàn phục vụ được mở rộng. Số hộ đói nghèo giảm dần. Phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc các đối tượng chính sách được quan tâm một cách thường xuyên. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội có những bước chuyển tích cực, các tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan từng bước bị đẩy lùi. Thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân không ngừng được củng cố và tăng cường. Hệ thống chính trị lớn mạnh không ngừng.

Với những chiến công trong kháng chiến chống Mỹ, huyện Trà My đã được Đảng và Nhà nước tặng nhiều phần thưởng cao quý. Toàn huyện có 380 trường hợp, trong đó có 173 người dân tộc thiểu số được công nhận liệt sĩ; 277 trường hợp được công nhận là thương binh; 5.335 huân chương kháng chiến, 4.228 huy chương kháng chiến các loại, 982 bằng khen của Chính phủ. Đặc biệt, lực lượng vũ trang huyện; 4 xã Trà Mai, Trà Cót, Trà Giác Trà Đốc và đồng chí Hồ Thanh Lâm được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; 15 bà mẹ được phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng. 28 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cán bộ và nhân dân huyện Trà My được tặng 4 Huân chương Lao động các hạng.

Tuy nhiên với quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, cũng cần nhìn nhận những hạn chế, khuyết điểm trong quá trình lãnh đạo của Đảng bộ Trà My. 30 năm đấu tranh giải phóng dân tộc, việc xây dựng căn cứ địa, công tác phát triển và đào tạo cán bộ người dân tộc thiểu số, nhất là ở các xã vùng cao có lúc chưa được quan tâm đúng mức. 28 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng của địa phương. Đầu tư cho phát triển nông nghiệp thiếu tập trung, chưa xác định đúng mức vấn đề lương thực tại chỗ, việc chuyển đổi cơ cấu cây trong và con vật nuôi chưa rộng khắp, vì vậy kinh tế nông nghiệp vẫn còn mang tính tự cấp, tự túc và mất cân đối, không có tính vững chắc. Chưa có nỗ lực cần thiết và biện pháp hữu hiệu để bảo vệ nguồn lâm đặc sản, môi trường sinh thái luôn bị xâm phạm. Tình trạng dịch bệnh vẫn còn xảy ra. Một số hủ tục vẫn còn; tình trạng thất học vẫn còn chiếm tỉ lệ cao. Tỉ lệ đói nghèo vẫn còn cao. Trình độ phát triển giữa các vùng còn có sự chênh lệch lớn. Còn nhiều tổ chức cơ sở Đảng chưa chú trọng đúng mức công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ là đồng bào các dân tộc thiểu số. Mặt trận và các đoàn thể có nơi còn lúng túng trong hoạt động...

Từ những thành tựu đạt được cũng như những hạn chế, có thể rút ra một số kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Trà My trong 58 năm1945-2003 như sau:

Một là, biết vận dụng đúng đắn đường lối của Đảng, nhất là trên lĩnh vực dân tộc và miền núi; tranh thủ sự đầu tư và quan tâm chỉ đạo của cấp trên.

Hoạt động trên địa bàn miền núi cao, có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống, trình độ mọi mặt phát triển còn thấp, Đảng bộ huyện ngay sau khi ra đời cũng như trong suốt quá trình lãnh đạo đã đặc biệt chú trọng đến công tác vận động đồng bào các dân tộc thiểu số và phương pháp hoạt động ở vùng miền núi. Đảng bộ huyện Trà My cũng biết vận dụng đúng đắn những chính sách dân tộc và miền núi của Đảng, đồng thời cụ thể hóa phù hợp với tình hình địa phương. Chính nhờ đó, trên địa bàn Trà My chưa để xảy ra trường hợp vi phạm nghiêm trọng trong việc thực hiện chính sách dân tộc và miền núi của Đảng. Những năm kháng chiến chống Pháp, nhờ phát động được quần chúng, thực dân Pháp vẫn không mở rộng được mạng lưới gum, tề; số gum, tề của chúng xây dựng được Nam Bền, Bắc Bền cũng bị ta giải tán trước khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc.

Bên cạnh đó, Đảng bộ huyện cũng tranh thủ sự quan tâm và đầu tư về mọi mặt của cấp trên. Mỗi bước trưởng thành của Đảng bộ và những thành tựu của nhân dân Trà My đều có sự quan tâm và hỗ trợ đó. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cơ quan khu uỷ V, Ban Cán sự Nam Trà đóng ở Trà My, Đảng bộ và nhân dân Trà My đã nhận được nhiều ý kiến chỉ đạo kịp thời nhằm xác định đúng đắn việc chỉ đạo phong trào, đồng thời có thời gian, như năm 1973, tình hình đói, đau diễn biến phức tạp, khu đã giúp cho Trà My nhiều lương thực, thực phẩm và thuốc chữa bệnh. Cũng chính lực lượng cán bộ, nhân viên của khu, của Ban cán sự Nam Trà ở Trà My là lực lượng đã góp phần tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho đồng bào cũng như hướng dẫn cho đồng bào sản xuất, ăn ở hợp vệ sịnh, dạy cho con em đồng bào học văn hoá. 28 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là từ năm 1995 đến năm 2003, sự giúp đỡ của Trung ương, của tỉnh đối với Trà My rất to lớn. Nhờ đó, huyện đã đầu tư xây dựng được mạng lưới giao thông, điện, trường học, y tế, các trung tâm cụm xã...

Tuy nhiên, để có sự giúp đỡ đó, Đảng bộ và nhân dân địa phương đã phát huy tinh thần nội lực, xây dựng được nhiều phong trào, từ đó tạo được niềm tin cho Trung ương, tỉnh mạnh dạn giúp đỡ Trà My.

Hai là, dựa vào đặc điểm tình hình địa phương, đề ra các chủ trương đúng đắn.

Ngay từ quá trình vận động thành lập cho đến sau này, Đảng bộ luôn tuân thủ nội dung và phương châm công tác trên. Việc tuyên truyền về Đảng cho đồng bào các dân tộc thiểu số cũng linh hoạt và phù hợp với sự hiểu biết của họ. Đặc điểm của người dân tộc thiểu số là thật thà, mọi điều phải mắt thấy tai nghe. Những năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, việc tuyên truyền phát triển Đảng chủ yếu dựa vào những việc làm cụ thể và những hình ảnh cán bộ cụ thể để tuyên truyền, do đó đã kết nạp được nhiều đảng viên người dân tộc thiểu số. Những năm sau ngày đất nước thống nhất, trình độ của đồng bào các dân tộc thiểu số có nâng lên nhưng việc tuyên truyền giác ngộ Đảng cũng bám theo yêu cầu trên.

Trong chỉ đạo phát triển kinh tế, Đảng bộ biết dựa vào điều kiện tự nhiên của mỗi vùng, mỗi xã để có hướng quy hoạch và đầu tư phù hợp. Việc củng cố các tổ chức cơ sở Đảng cũng như các tổ chức của hệ thống chính trị cũng biết dựa vào đặc điểm của từng vùng để đề ra những nhiệm vụ, biện pháp thích hợp. Ngay cả việc đánh địch, phá âm mưu của địch trong việc lập chính quyền, bảo vệ cán bộ, bảo vệ hình ảnh của Bác Hồ, Đảng bộ cũng biết dựa vào đặc điểm của người dân tộc thiểu số để đấu tranh với địch, do đó bọn địch thường đuối lý trước lý lẽ của bà con. Chính nhờ nắm bắt đặc điểm đó nên nhiều chủ trương của Đảng bộ luôn hợp lòng dân, đem lại kết quả thiết thực. Tuy nhiên cũng nhìn nhận bên cạnh những mặt tích cực đó, đôi lúc đôi nơi, Đảng bộ chưa hiểu hết đặc điểm vùng núi và đặc điểm đồng bào dân tộc thiểu số nên đã gặp nhiều khó khăn trong hoạt động, thậm chí trả giá cho sự khó khăn tạm thời của phong trào.

Ba là, xây dựng và giữ gìn mối quan hệ đoàn kết, thống nhất trong Đảng, giữa Đảng với nhân dân và giữa đồng bào các dân tộc.

Trà My có nhiều thành phần dân tộc thiểu số sinh sống và chiếm đại đa số dân cư. Mỗi dân tộc lại có nhiều nhóm dân tộc, mỗi nhóm lại mang những nét văn hoá riêng. Giữa đồng bào các dân tộc thiểu số với đồng bào Kinh lại có nhiều điểm khác biệt về mặt phong tục, tập quán, trình độ văn hoá. Do đó xây dựng mối đoàn kết gắn bó giữa đồng bào các dân tộc và giữa đồng bào các dân tộc với đồng bào Kinh như ở Trà My luôn được Đảng bộ huyện đặt ra. Muốn làm được điều đó, Đảng bộ đã coi trọng và giáo dục đồng bào xóa bỏ những hủ tục ảnh hưởng đến sự đoàn kết dân tộc, nhất là tệ trả đầu, sống chan hòa, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau, đặc biệt là không để mắc mưu bọn xấu, bọn thực dân, đế quốc và tay sai trong việc kích động, gây chia rẽ đồng bào các dân tộc thiểu số và giữa đồng bào các dân tộc thiểu số với đồng bào Kinh. Năm 1956, Đảng bộ đã giải quyết vụ Lon Lái nên tránh xảy ra việc mâu thuẩn giữa đồng bào dân tộc thiểu số với nhau. Đảng bộ huyện đã tổ chức các kỳ Đại hội các dân tộc huyện cũng như tham gia tổ chức các kỳ Đại hội các dân tộc miền Tây Quảng Nam, tổ chức ăn thề, xóa bỏ hiềm khích, qua đó tạo nên sự hiểu biết lẫn nhau giữa các đồng bào. Những năm sau năm 1975, công tác xây dựng mối quan hệ đoàn kết dân tộc được chú trọng đúng mức, do đó ở Trà My đã không xảy ra vụ việc nào đáng kể.

Từ đặc điểm của dân số dẫn đến đặc điểm thành phần đảng viên của Đảng bộ Trà My. Số lượng đảng viên của người dân tộc vẫn chiếm tỉ lệ cao trong tổng số đảng viên của Đảng bộ. Tuy nhiên, mối quan hệ đoàn kết, thống nhất trong Đảng bộ luôn được giữ vững. Đảng viên người Kinh biết dựa vào đảng viên người dân tộc thiểu số để hiểu hơn tình hình địa phương cũng như để vận động đồng bào các dân tộc thiểu số tham gia cách mạng. Ngược lại đảng viên người các dân tộc thiểu số học hỏi ở đảng viên người Kinh nhiều điều bổ ích về mặt văn hóa, lý luận chính trị để vận dụng vào hoạt động thực tiễn. Bên cạnh đó, Đảng bộ luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, thường xuyên tiến hành phê bình và tự phê bình, xử lý kịp thời các vụ việc nổi cộm, do đó không để xảy ra những vụ việc mất đoàn kết nghiêm trọng. Mối quan hệ giữa Đảng và đồng bào các dân tộc thiểu số cũng thường xuyên được củng cố. Những năm kháng chiến, cán bộ người Kinh thực hiện ba cùng: Cùng ăn, cùng ở, cùng làm, vì thế được nhân dân các dân tộc thiểu số tin yêu, hết lòng giúp đỡ về mọi mặt, vượt qua sự truy lùng của kẻ thù. Niềm tin của Đảng đối với Đảng và Bác Hồ tuyệt đối và hình ảnh Bác Hồ đã được thần thánh hóa. Chính nhờ giữ được sự đoàn kết trong nhân dân và trong Đảng bộ nên Đảng bộ đã phát huy được vai trò lãnh đạo, hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Bốn là, làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ, nhất là cán bộ người dân tộc thiểu số, đi đôi với việc phát huy vai trò của cán bộ, đảng viên người Kinh.

Cán bộ là gốc của phong trào, cán bộ mạnh thì phong trào mới mạnh. Nhận thức được điều đó, Đảng bộ huyện Trà My luôn quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng, nhất là cán bộ người dân tộc thiểu số. Lúc thành lập, số lượng cán bộ của Đảng bộ huyện rất ít và hầu hết là cán bộ người Kinh được tăng cường lên miền núi. Để bổ sung cán bộ, nhất là cán bộ người địa phương, Đảng bộ đã quan tâm bồi dưỡng số con em người dân tộc thiểu số, những năm 1948-1949, tập trung cho công tác phát triển Đảng, nhờ đó tình trạng thiếu cán bộ, nhất là cán bộ người dân tộc thiểu số được khắc phục một bước. Ở các xã vùng thấp, đội ngũ cán bộ cơ sở đã đảm đương được phần lớn nhiệm vụ. Có xã đã thành lập được chi bộ toàn người dân tộc thiểu số; một số đảng viên người dân tộc thiểu số được cơ cấu vào Huyện ủy, giữ những vị trí quan trọng trong các ban, ngành ở huyện. Bước sang kháng chiến chống Mỹ, nhất là từ năm 1960, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số được bổ sung đáng kể. Đảng bộ thường xuyên mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ từ cơ sở lên huyện, đưa một số con em người dân tộc thiểu số ra miền Bắc học tập để sau này trở về phục vụ quê hương. Nhờ những biện pháp đó nên đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số dần dần thay thế cán bộ người Kinh và đảm đương được nhiều vị trí chủ chốt của Đảng bộ, có đồng chí được cơ cấu vào Tỉnh ủy.

28 năm xây dựng và bảo vệ đất nước, với điều kiện thuận lợi hơn, Đảng bộ càng chăm lo công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Trường Đảng huyện, sau này là Trung tâm bồi dưõng chính trị hụyện đã tổ chức nhiều khóa bồi dưõng về lý luận và nghiệp vụ công tác Đảng, mặt trận, đoàn thể, đáp ứng yêu cầu nâng cao khả năng công tác của đội ngũ cán bộ cơ sở, đồng thời Đảng bộ cử nhiều cán bộ di dự đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn và dài hạn cả về lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ do tỉnh và Trung ương tổ chức. Việc thành lập Trường dân tộc nội trú của huyện đã đáp ứng nhu cầu nâng cao trình độ văn hóa cho con em đồng bào các dân tộc thiểu số và chính lực lượng này là nguồn quan trọng bổ sung lực lượng cán bộ cho địa phương.

Tuy nhiên, trong một số thời điểm, nhất là sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ người dân tộc thiểu số được đặt ra như thiếu biện pháp thực hiện nên hiệu quả còn thấp. Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, nhất là ở các xã vùng cao còn ít, trình độ còn hạn chế.

Trong 58 năm( 1945-2003), Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Trà My đã lập nhiều thành tựu đáng tự hào. Ôn lại những chặng đường lịch sử hào hùng, vinh quang đó, không những để nâng cao lòng tự hào mà còn nhằm phát huy nó vào cuộc sống hôm nay. Chính những trang sử đã qua sẽ sống mãi, mãi mãi là động lực thúc đẩy Đảng bộ và nhân dân hai huyện Nam Trà My và Bắc Trà My phát huy cao độ tiềm năng, thế mạnh của mình để tiếp tục xây dựng Đảng bộ và quê hương trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

THÔNG BÁO MỚI

Người phát ngôn

THƯ VIỆN ẢNH

LIÊN KẾT WEBSITE

Khảo sát ý kiến

Thống kê truy cập

268292
  • Trong ngày: 875
  • Trong tháng: 53079
  • Trong năm: 264331
Đang tải dữ liệu...