1. TRIỂN KHAI THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG (9.1986 - 3.1991)
Bước vào năm 1986, cùng với thực trạng chung của cả nước, tình hình kinh tế- xã hội của huyện Trà My tuy đạt nhiều kết quả, song nhìn chung còn gặp không ít khó khăn về nhiều mặt, đòi hỏi toàn Đảng bộ, toàn quân và nhân dân các dân tộc trong huyện không ngừng phấn đấu về mọi mặt, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội đã đề ra.
Thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tổ chức Đại hội các cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, từ ngày 12 đến ngày 16.9.1986, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Trà My lần thứ XI, nhiệm kỳ 1986-1988 được tổ chức tại hội trường Trường Đảng huyện. Tham dự đại hội có 254 đại biểu đại diện cho đảng viên của toàn Đảng bộ. Về dự và chỉ đạo đại hội có đồng chí Lê Thế Tiệm- Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Giám đốc Công an tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng.
Đại hội đã tiến hành tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ X, nhiệm kỳ 1983-1985; thảo luận, đóng góp ý kiến vào dự thảo các văn kiện Đại hội VI của Đảng và đề ra phương hướng, nhiệm vụ của Đảng bộ nhiệm kỳ 1986-1988 là: "Đề cao truyền thống đoàn kết, ý chí cách mạng tiến công, tinh thần tự lực tự cường, phát huy và thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, dấy lên phong trào thi đua lao động xã hội chủ nghĩa sôi nổi, liên tục trong toàn huyện để khắc phục khó khăn, khuyết điểm, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược mà Đảng đã đề ra. Trước mắt tập trung giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trong cơ cấu của từng vùng, từng xã để khai thác tốt nhất khả năng, tiềm năng về lao động, đất đai, tai nguyên và cơ sở vật chất tạo ra tiền đề vững chắc để phát triển sản xuất và cải thiện đời sống nhân dân, đảm bảo an ninh chính trị và quốc phòng, phấn đấu xây dựng Đảng bộ vững mạnh về mọi mặt và đạt danh hiệu Trong sạch vững mạnh trong những năm đến"(1).
Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XI gồm 45 đồng chí, trong đó có 10 uỷ viên dự khuyết; bầu Ban Thường vụ Huyện ủy gồm 11 đồng chí. Đồng chí Hồ Văn Reo được bầu làm Bí thư, các đồng chí Đỗ Kim Bân, Nguyễn Chiến Hữu được bầu làm Phó Bí thư Huyện uỷ. Đến cuối năm 1986, đồng chí Đỗ Kim Bân nghỉ hưu, đồng chí Trần Lợi được bầu làm Phó Bí thư Huyện ủy.
Từ ngày 15 đến ngày 18.12.1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp tại thủ đô Hà Nội. Đây là Đại hội mở ra thời kỳ đổi mới đất nước, đưa nước ta bước vào thời kỳ phát triển mới có tính chất bước ngoặt.
Thực hiện Quyết định 162- QĐ/HĐBT, ngày 3.12.1986, Hội đồng Bộ trưởng, Huyện uỷ Trà My đã chỉ đạo thành công việc chia Trà Mai được chia thành đơn vị hành chính là xã: Trà Mai và Trà Don.
Quán triệt quan điểm đổi mới của Đảng và thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XI, Đảng bộ huyện đã lãnh đạo nhân dân trong huyện vượt qua những khó khăn thử thách và bước đầu giành được những kết quả quan trọng trên lĩnh vực kinh tế- xã hội.
Về sản xuất nông nghiệp, năm 1987, huyện đầu tư xây dựng một số công trình thủy lợi như đập Xiêm Rang (Trà Pui), đập thôn 3, xã Trà Cang; đập Suối Đá, sửa chữa đập Kréc, nâng cao hồ Nước Rinh, thi công công trình thủy lợi Nước Ron...góp phần phục vụ tưới tiêu cho 1230 ha và nâng cao năng suất, sản lượng lương thực trong năm là 13.008 tấn, đạt 100 % kế hoạch.
Về chăn nuôi, trên địa bàn huyện bước đầu phát triển đàn lợn lai kinh tế ở Trạm kỹ thuật nông nghiệp, cung cấp 110 con lợn giống F1 cho nông dân các xã vùng thấp. Các xã vùng trung, vùng cao bước đầu thực hiện chăn nuôi có chuồng trại. Về lâm nghiệp, huyện thực hiện phương án tổ chức lại nghề rừng, thành lập Liên hiệp xí nghiệp Nông- lâm- công nghiệp Trà My
Về công tác định canh định cư, huyện đầu tư xây dựng một số công trình cơ bản phục vụ cho các cụm dân cư khu kinh tế mới như xây dựng trường học ở xã Trà Tân, Trà Pui, xây dựng trạm y tế ở xã Trà Dương, Trà Giáp, khảo sát cầu treo Trà Đông, Trà Giang. Huyện hợp đồng với Đoàn địa chất 503,206 để khảo sát tham dò mỏ đá hoa cương ở Trà Dương, mỏ thiếc ở Hòn Bà (Trà Giang) và khảo sát công trình thủy điện Nước Là (Trà Mai).
Trên lĩnh vực văn hóa- xã hội có nhiều chuyển biến, trong đó nổi lên nhất là huyện đã đăng cai tổ chức thành công Hội thao mùa xuân các huyện miền núi lần thứ VI. Đây là Hội thao được chuẩn bị chu đáo về mọi mặt, tạo ra những nét mới và gây nhiều ấn tượng so với những lần trước đó. Kết quả, đoàn Trà My đạt giải nhất toàn đoàn.
Tình hình an ninh trật tự được giữ vững, công an, huyện đội đã tổ chức nhiều đợt truy quét bọn khai thác tài nguyên khoáng sản bất hợp pháp, kịp thời điều tra xử lý các vụ án phức tạp, trong đó nổi lên là việc xử lý vụ án giết người ở Trà Tân. Bên cạnh đó, huyện còn tổ chức các cuộc họp liên kết với các huyện Đắk Lay, Kon Plong, tỉnh Kon Tum; các huyện Sơn Hà, Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi để truy quét bọn tội phạm.
Đặc biệt, ngày 7.3.1987, Huyện ủy ban hành Chỉ thị 13-CT/HU về việc ngăn chặn, dập tắt và truy tìm những luận điệu phao tin đồn nhảm, kích động của kẻ xấu. Đây là chủ trương kịp thời nhằm tuyên truyền, giáo dục cho quần chúng hiểu được âm mưu phá hoại nhiều mặt của kẻ thù, tăng cường cảnh giác cách mạng, đồng thời chỉ đạo đẩy mạnh sản xuất, đấu tranh ngăn chặn các tập tục lạc hậu nảy sinh; dập tắt các dịch bệnh xảy ra ở các vùng; kiểm tra, xử lý thích đáng bọn đầu cơ buôn lậu, phá giá thị trường.
Hoạt động của các ngành thanh tra, viện kiểm sát nhân dân, toà án nhân dân, tư pháp của huyện được duy trì thường xuyên, trong đó nổi lên nhất là tuyên truyền Luật hôn nhân- gia đình, kiện toàn 42 cán bộ tư pháp xã, ngành tòa án thụ lý 15 vụ án; ngành thanh tra bước đầu thực hiện lịch tiếp dân, giải quyết 14 đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân, xây dựng 23 ban thanh tra cơ sở
Về công tác xây dựng Đảng, một nét mới của huyện là đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong trường học. Đây là chủ trương nhạy bén, kịp thời, góp phần xóa tình trạng “trắng" đảng viên ở một số trường học. Kết quả năm 1987, các trường cấp I, II thị trấn Trà My, trường cấp I-II xã Trà Linh, trường cấp I xã Trà Giang, Trà Tập và Trà Đốc đã phát triển đảng viên mới.
Công tác củng cố chính quyền các cấp được chú trọng. Đặc biệt, ngày 19.7.1987, Huyện ủy đã lãnh đạo thành công bầu cử Quốc hội khóa VIII, bầu cử hội đồng nhân dân các cấp. Toàn huyện có 19 đơn vị bầu cử với 105 tổ bầu cử. Kết thúc cuộc bầu cử, toàn huyện có 99,40 % cử tri tham gia bầu cử và đã bầu 47 vị đại biểu Hội đồng Nhân dân huyện khoá IV, 489 vị đại biểu Hội đồng Nhân dân xã.
Một tin vui đến với Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Trà My là ngày 12.5.1987, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký quyết định tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba cho cán bộ và nhân dân huyện Trà My vì đã có thành tích xuất sắc trong các mặt công tác, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đây là niềm cổ vũ lớn lao để Đảng bộ và nhân dân huyện Trà My vượt qua khó khăn, tiếp tục giành được thành tựu lớn hơn nữa trong công cuộc đổi mới do Đại hội VI của Đảng đề ra.
Nhân sự kiện báo Nhân Dân (ngày 16.7.1987) đăng bài "Những việc cần làm ngay" của tác giả N.V.L (tức Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh) và trên tinh thần Chỉ thị số 10- CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam- Đà Nẵng về việc chống tiêu cực, ngày 20. 7.1987, Ban Thường vụ Huyện ủy Trà My ban hành Chỉ thị số 22- CT/HU về việc hưởng ứng "Những việc cần làm ngay". Huyện ủy đã chỉ đạo tiến hành thanh tra lĩnh vực kinh tế xã hội, giải quyết thư khiếu nại, tố cáo của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Qua thanh tra 7 đơn vị kinh tế, bước đầu giải quyết, xử lý và thu hồi tài sản thất thoát với 1.183.290 đồng, xử lý kỷ luật 28 đảng viên, trong đó có 8 đảng viên bị khai trừ, 12 đảng viên bị cảnh cáo và 4 đảng viên bị khiển trách. Bên cạnh đó, Huyện ủy đã đưa đi đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị cho 6 đồng chí và tích cực tổ chức triển khai học tập các chuyên đề nghị quyết Đại hội VI của Đảng cho đội ngũ cán bộ cấp huyện và cơ sở.
Cùng với những biện pháp chống tiêu cực trong Đảng, cơ quan Nhà nước, Huyện ủy còn ban hành chỉ thị về nghiêm cấm cư trú buôn bán hàng quốc cấm, góp phần đẩy lùi các tệ nạn xã hội, làm trong sạch địa bàn, giữ vững an ninh và trật tự an toàn xã hội.
Triển khai Chỉ thị 14-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) “về việc Củng cố tổ chức, phát huy tác dụng tích cực của Hội Chữ thập đỏ", Huyện ủy Trà My đã kịp thời triển khai đến các tổ chức cơ sở Đảng, mặt trận, đoàn thể nhân dân với phương châm “Nhà nhà làm việc thiện, người người làm việc thiện, ngành ngành làm việc thiện", góp phần giúp đỡ những người khó khăn, gặp hoạn nạn.
Ngày 30.3.1988, Huyện ủy tổ chức Hội nghị tổng kết việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng trên địa bàn huyện trong giai đoạn 1976-1988 và đề ra phương hướng, nhiệm vụ trong thời gian đến. Về kết quả đạt được, Hội nghị nêu rõ: dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, đồng bào các dân tộc thiểu số huyện Trà My giữ vững và phát huy truyền thống cách mạng, đoàn kết, tin tưởng vào Đảng. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện, công tác bồi dưỡng trình độ lý luận, chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ được quan tâm đúng mức, trên 90 % cấp ủy, bí thư các cơ sở Đảng ở huyện, 85 % ở cấp xã được đào tạo, bồi dưỡng.
Tuy nhiên, Hội nghị cũng nêu lên một số mặt tồn tại sau: đời sống của nhân dân vẫn còn nhiều khó khăn, cơ sở vật chất chưa được đầu tư đúng mức, tỷ lệ tăng dân số, tỷ lệ mù chữ còn khá cao, công tác lãnh chỉ đạo còn chừng mực.
Từ kết quả đạt được và những tồn tại, Hội nghị đề ra phương hướng nhiệm vụ thực hiện chính sách dân tộc của Đảng trong thời gian đến với mục tiêu khai thác tối đa tiềm năng, thế mạnh của huyện, phấn đấu đưa huyện trở thành một trong những huyện miền núi của tỉnh phát triển về mọi mặt, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên.
Ngày 16.4.1988, Hội đồng Bộ trưởng có Quyết định số 63- HĐBT, chia xã Trà Liên thành hai xã là Trà Nú và xã Trà Cót. Huyện uỷ Trà My đã tập trung chỉ đạo thực hiện tốt việc chia xã lần này.
Cũng trong năm 1988, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã tổ chức biên soạn và phát hành tập sách Những sự kiện Lịch sử huyện Trà My 1945-1975. Đây là tập sách ghi lại những sự kiện tiêu biểu của Đảng bộ, quân và dân Trà My trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, góp phần vào công tác giáo dục truyền thống cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ.
Nhìn chung, sau hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện khóa XI (1986-1988), tình hình các mặt của huyện có nhiều chuyển biến, trong đó nổi lên nhất là: huyện đã xây dựng mô hình sản xuất mới theo hướng nông- lâm- công nghiệp kết hợp, mở rộng kinh doanh tổng hợp, thay đổi cơ cấu đầu tư, tập trung các công trình trọng điểm như thủy điện Nước Oa, đường Trà My- Tắk Pỏ, bệnh xá, trường học...thu hút vốn đầu tư hơn 60 % tổng ngân sách huyện.
Việc giao đất giao rừng, xây dựng làng định canh, định cư theo tinh thần Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (khoá VI) được thực hiện có hiệu quả. Phong trào “Trồng cây gây rừng” được nhân dân hưởng ứng.
Trong phân phối lưu thông, sản lượng lương thực được huy động cho Nhà nước, tổng kim ngạch xuất khẩu đều đạt kế hoạch, vốn lưu động tăng hai lần và tiền mặt quay vòng tăng 3,5 lần so với năm 1987, cân đối được thu chi ngân sách.
Công tác xây dựng Đảng được chú trọng, năng lực lãnh đạo của Đảng được tăng cường, công tác củng cố bộ máy tổ chức, bố trí sắp xếp sử dụng đội ngũ cán bộ hợp lý, kiện toàn được các tổ chức cơ sở Đảng, xây dựng đội ngũ đảng viên vững chắc.
Những kết quả bước đầu này đã tạo động lực để Đảng bộ, quân và dân huyện Trà My tiếp tục phát huy trong những năm đến, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới của Đảng.
Thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc mở Đại hội Đảng bộ các cấp, từ ngày 23 đến ngày 25.3.1989, tại hội trường Trường Đảng huyện, Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XII, nhiệm kỳ 1989-1990 được tiến hành. Tham dự đại hội có 241 đại biểu chính thức của 55 tổ chức cơ sở Đảng trong toàn huyện. Về dự và chỉ đạo đại hội có đồng chí Lê Thế Tiệm- ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Giám đốc Công an tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Đại hội đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XI và đề ra phương hướng nhiệm vụ của Đảng bộ huyện nhiệm kỳ 1989-1990. Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XII, nhiệm kỳ 1989-1990 gồm 35 đồng chí, trong đó có 2 đồng chí là uỷ viên dự khuyết; bầu Ban Thường vụ Huyện ủy gồm 9 đồng chí. Đồng chí Hồ Văn Reo được bầu lại làm Bí thư, các đồng chí Nguyễn Chiến Hữu, Trần Lợi được bầu làm Phó Bí thư Huyện uỷ.
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XII và các Nghị quyết, chỉ thị của Tỉnh uỷ, của Trung ương trong điều kiện tình hình trong nước và thế giới diễn biến phức tạp, nhất là hệ thống các nước xã hội nghĩa ở Đông Âu lâm vào khủng hoảng cao độ, trong khi đó tình hình thiên tai liên tiếp xảy ra trên địa bàn tỉnh nói chung và địa bàn huyện nói riêng tác động mạnh mẽ đến đời sống của nhân dân. Song, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Trà My từng bước vượt qua khó khăn, thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng.
Ngày 19.11.1989 được qui định là ngày bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 1989-1994. Huyện ủy đã lãnh đạo tốt công tác chuẩn bị bầu cử trên địa bàn huyện. Kết thúc cuộc bầu cử, toàn huyện có 99% cử tri tham gia bầu cử và đã bầu ra 40 đại biểu Hội đồng nhân dân huyện khóa VI.
Thực hiện Chỉ thị 135- CT/HĐBT và Quyết định 240-QĐ/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về công tác bảo vệ an ninh quốc gia, từ cuối năm 1989, đầu năm 1990, Trà My đã triển khai thực hiện và bước đầu đã lập lại trật tự kỷ cương trên địa bàn. Đặc biệt, ý thức cảnh giác cách mạng trong toàn dân và lực lượng vũ trang được tăng cường, phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc được nhân rộng.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng( khóa VI) về đổi mới công tác vận động quần chúng, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc từ huyện đến cơ sở thường xuyên phối hợp với các tổ chức thành viên tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc, đồng bào tôn giáo thi đua lao động sản xuất và chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Mối quan hệ giữa Mặt trận và chính quyền ngày càng chặt chẽ, thiết thực. Trong đó thể hiện rõ nhất là các ý kiến đóng góp của ủy ban mặt trận các cấp thông qua các kỳ họp hội đồng nhân dân các cấp.
Hoạt động của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh đã có nhiều cố gắng. Năm 1987, huyện Đoàn tập trung chỉ đạo các cấp bộ đoàn tiến hành đại hội hết nhiệm kỳ gắn với việc động viên tuổi trẻ xung kích thực hiện 3 chương trình kinh tế- xã hội, đẩy mạnh thực hiện các phong trào “Dân số - kế hoạch hóa gia đình”, “Thanh niên xung kích trên mặt trận an ninh quốc phòng”...
Hoạt động của Hội liên hiệp phụ nữ huyện được đổi mới cả nội dung và phương thức vận động, trong đó nổi bật nhất là các phong trào: “Người phụ nữ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình”, “Phụ nữ nuôi dạy con tốt, hạn chế trẻ em suy dinh dưỡng, trẻ em bỏ học...”
Hội nông dân ngày càng mở rộng các hình thức tập hợp hội viên và bồi dưỡng cán bộ. Việc xây dựng qũy hội và cuộc vận động nông dân sản xuất giỏi để làm giàu được nông dân hưởng ứng và đem lại một số kết quả thiết thực.
Sau hơn 3 tháng kể từ ngày Hội Cựu Chiến binh Việt Nam được thành lập- ngày 6.12.1989, ngày 27.3.1990, Ban Thường vụ Huyện uỷ Trà My có Quyết định số 27-QĐ/HU về việc thành lập Hội cựu Chiến binh huyện và chỉ định Ban chấp hành lâm thời gồm 11 đồng chí. Đến tháng 12.1990, trên địa bàn huyện có 20/20 xã, thị trấn thành lập hội với 250 hội viên. Ngày 6.12.1990, Hội Cựu chiến binh huyện tổ chức Đại hội lần thứ I.
Thực hiện Chỉ thị số 51- CT/UBND của Uỷ ban Nhân dân tỉnh về công tác chống mù chữ giai đoạn 1990-1995, huyện đã triển khai quán triệt đến cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tại kỳ họp thứ 3, Hội đồng Nhân dân huyện khoá VI đã ra nghị quyết chuyên đề về một số nhiệm vụ cần thiết để thống nhất thực hiện công tác chống mù chữ giai đoạn 1990-2000.
Nét nổi bật trong công tác xây dựng Đảng trong những năm 1989-1990, mặc dù tình hình trong nước và thế giới diễn biến phức tạp, nhất là tình hình Liên xô và các nước Đông Âu đã tác động đến tư tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân, song Đảng bộ đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng và đã đạt được những kết quả khả quan. Huyện đã mở được 8 lớp chuyên đề, 2 lớp đối tượng Đảng, tổ chức 4 buổi thông tin thời sự và triển khai góp ý dự thảo các văn kiện trình Đại hội VII của Đảng. Qua phân loại, toàn huyện có 10 chi bộ, Đảng bộ đạt danh hiệu Trong sạch vững mạnh, trong năm đã kết nạp được 60 đảng viên mới, trong đó có 36 đảng viên người dân tộc, đồng thời làm thủ tục đề nghị tặng huy hiệu 40 năm tuổi Đảng cho 10 đồng chí
Những kết quả mà Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Trà My đạt được trong những năm đầu của công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XII là bước khởi đầu, tạo ra thế và lực mới để vượt qua khó khăn trong những năm đến, phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch đề ra, góp phần xây dựng Trà My ngày càng tươi đẹp.
2. ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, CẢI THIỆN ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT, TINH THẦN CỦA NHÂN DÂN (3.1991-12.1996)
Sau gần 5 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, cả nước nói chung và huyện Trà My nói riêng tuy đã giành được những thành tựu bước đầu rất quan trọng, nhưng lại đứng trước những khó khăn, thử thách mới. Tình hình đó đặt ra cho Đảng bộ huyện phải có sự lãnh đạo nhạy bén, có những giải pháp đồng bộ đề từng bước đưa địa phương trở thành một trong những huyện miền núi có tốc độ phát triển mạnh, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc được nâng cao.
Thực hiện Chỉ thị số 59-CT/TW, ngày 25. 5.1990 của Ban Bí thư Trung ương Đảng( khóa VI) về tổ chức Đại hội Đảng bộ các cấp, từ ngày 27 đến ngày 28.3.1991, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Trà My lần thứ XIII( vòng 1) được tổ chức tại hội trường Trường Đảng huyện. Tham dự đại hội có 220 đại biểu chính thức của 51 tổ chức cơ sở Đảng trong toàn Đảng bộ huyện.
Đại hội đã tiến hành thảo luận, đóng góp ý kiến vào bản dự thảo các văn kiện Đại hội VII của Đảng, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV; thông qua chương trình hành động lập thành tích chào mừng Đại hội Đảng bộ tỉnh và Đại hội VII của Đảng.
Đại hội bầu ra đoàn đại biểu đi dự đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV gồm 15 đại biểu chính thức, 2 đại biểu dự khuyết.
Tiếp đến, từ ngày 15 đến ngày 18.1.1992, tại hội trường Trường Đảng huyện, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Trà My lần thứ XIII (vòng 2), nhiệm kỳ 1991-1995 được tiến hành. Tham dự có 211 đại biểu chính thức được triệu tập.
Về dự và chỉ đạo Đại hội vòng 1 và vòng 2 có đồng chí Lê Quốc Khánh- Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy.
Đại hội đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XII và đề ra phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu của Đảng bộ khóa XIII, nhiệm kỳ 1991-1995 là: Khắc phục khó khăn, ổn định và phát triển kinh tế xã hội, thực hiện cuộc vận động định canh định cư gắn với xây dựng nông thôn miền núi và đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Tổ chức quản lý, khai thác và chế biến hợp lý nguồn tài nguyên rừng để tạo nguồn vốn nhằm từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tăng cường công tác xây dựng Đảng.
Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Trà My khóa XIII gồm 31 đồng chí, bầu Ban Thường vụ Huyện ủy gồm 9 đồng chí. Đồng chí Hồ Văn Reo được bầu lại làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Chiến Hữu và đồng chí Trần Lợi được bầu làm Phó Bí thư Huyện ủy.
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIII trong điều kiện đất nước còn rất nhiều khó khăn, song Đảng bộ đã lãnh đạo thực hiện các mặt công tác, từng bước vượt qua khó khăn thử thách và đã đạt được một số kết quả quan trọng.
Trước hết, về sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp tiếp tục được đẩy mạnh, công tác chỉ đạo lịch thời vụ, áp dụng giống mới, thâm canh tăng vụ, cải tạo đồng ruộng, làm thuỷ lợi nhỏ được chú trọng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp được tăng cường, trong sản xuất bước đầu có sự chuyển dịch cơ cấu từ thuần nông sang nông - lâm nghiệp kết hợp dịch vụ và ngành nghề, từng bước xoá thế độc canh cây lúa, đã xuất hiện nhiều mô hình hộ nông dân sản xuất giỏi, thu nhập khá. Tổng sản lượng lương thực quy thóc năm 1991 đạt 12.000 tấn.
Chăn nuôi phát triển, tổng đàn gia súc gia cầm các loại đều tăng, bước đầu nuôi bò lai Sind, lợn Móng Cái được nhân dân hưởng ứng thực hiện.
Sản xuất lâm nghiệp được sắp xếp lại, sau khi chuyển giao cho tỉnh hai lâm trường quốc doanh, công tác quản lý bảo vệ rừng của huyện bước đầu có tiến bộ rõ nét, diện tích rừng được chăm sóc hàng năm đạt kế hoạch, hàng năm xây dựng được trên 30 ha vườn rừng, trồng mới trên 500.000 cây quế và một số cây khác theo chương trình PAM và dự án 327.
Trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp có bước chuyển biến mới, sản lượng điện hàng năm đạt bình quân 600.000 KW/h, hoàn thành tuyến đường dây tải điện Trà My- Tiên Phước. Kết hợp với thực hiện định canh định cư, huyện đầu tư xây dựng một số công trình thủy điện nhỏ, trạm thủy điện ở nhiều thôn, nóc.
Công tác thu chi và quản lý tài chính có nhiều tiến bộ, hàng năm thu vào ngân sách đạt bình quân từ 3-4 tỷ đồng, trong đó nguồn thu thuế hàng năm đều vượt kế hoạch từ 20-30 %. Kho bạc, ngân hàng đảm bảo lượng tiền mặt phục vụ trên địa bàn, trong ba năm 1991-1994, đã cho hơn 200 hộ nông dân vay để sản xuất nông - lâm nghiệp với số tiền trên 8 tỷ đồng.
Ngày 11.6.1991, Huyện Trà My đã tổ chức hội nghị tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 22- NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa VI) và Nghị quyết 04-NQ/HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh về cuộc vận động định canh định cư trên địa bàn huyện. Về kết quả đạt được, hội nghị nêu rõ: trong các năm qua, huyện bước đầu khảo sát qui hoạch tổng thể và điểm bố trí dân cư từ 500 điểm năm 1975, nay còn 150 điểm; vận động định canh định cư cho 920 hộ với 4.983 nhân khẩu, hình thức vận động phù hợp với đặc điểm điều kiện thực tế của từng địa phương, từng vùng. Với sự giúp đỡ của các cấp, huyện đã sửa và nâng cấp, mở mới một số tuyến đường giao thông từ huyện đến các cụm dân cư, đồng thời đã vận động nhân dân đóng góp hàng ngàn ngày công sửa chữa trên 220 km đường liên thôn, liên nóc, xây dựng 14 công trình thủy lợi, công trình thủy điện Nước Oa và một số công trình phúc lợi như giếng nước, nhà vệ sinh; xây dựng và sửa chữa 12 cơ quan xã, 3 trạm y tế, 23 trường học kiên cố; trồng 500 ha quế, 113 ha trẩu, 78 ha chè...Kết quả đó đã góp phần ổn định đời sống nhân dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện.
Tháng 3.1992, một sự kiện nổi bật của huyện là địa phương được vinh dự đăng cai tổ chức Lễ hội Văn hóa- Thể thao các huyện miền núi- trung du toàn tỉnh lần thứ X. Do được chuẩn bị tốt về mọi mặt, lễ hội đã thành công tốt đẹp. Kết quả, đoàn Trà My giành giải Nhất toàn đoàn, góp phần tăng thêm bộ sưu tập thành tích gồm 3 lần đạt giải Nhất, 5 lần đạt giải Nhì và 2 lần đạt giải Ba toàn đoàn trong các lần tham gia lễ hội.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) về tăng cường an ninh quốc phòng, Huyện ủy xây dựng chương trình hành động lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ an ninh quốc phòng trên địa bàn huyện, trong đó chỉ đạo Ban cán sự Đảng các cơ quan Ban chỉ huy quân sự huyện và Công an huyện thường xuyên tổ chức giao ban nắm tình hình, đánh giá lại việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác tham mưu giúp Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo trên lĩnh vực an ninh, quốc phòng.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng( khóa VII) về đẩy mạnh, phát triển các mặt văn hóa xã hội, ngày 4.1.1993, Huyện ủy tổ chức Hội nghị đánh giá tình hình phát triển văn hóa- xã hội trên địa bàn huyện trong những năm qua và đề ra phương hướng, nhiệm vụ trong thời gian đến. Về kết quả đạt được, Hội nghị nêu rõ: Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, các chế độ chính sách cơ bản thực hiện đồng bộ, công tác quy tập mộ liệt sĩ có nhiều cố gắng, công tác khen thưởng ba thời kỳ cơ bản hoàn thành; công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân có nhiều tiến bộ, cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế, thuốc men được tăng cường, bước đầu triển khai các chương trình y tế quốc gia có hiệu quả, thành công lớn là đã ngăn chặn được dịch bệnh sốt rét, hạn chế bệnh bướu cổ. Công tác truyền thông dân số và thực hiện kế hoạch hóa gia đình được triển khai ở những địa bàn trọng điểm; công tác thông tin văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao được duy trì thường xuyên thông qua các ngày lễ truyền thống của dân tộc, các loại hình văn hóa văn nghệ quần chúng được phát huy.
Tuy nhiên, do hạn hán kéo dài làm cho sản xuất mất mùa, đời sống nhân dân lâm vào khó khăn, 1/3 số hộ lâm vào tình trạng thiếu gạo trong những tháng giáp hạt, tỷ lệ hộ đói nghèo tăng lên 61,7 %, số lao động không có việc làm ổn định tăng lên gần 1.000 người.
Từ kết quả đạt được và những hạn chế, Huyện ủy đề ra chương trình hành động với nội dung chủ yếu: phát động phong trào tăng gia sản xuất, chỉ đạo các ngành, địa phương tập trung khắc phục thiên tai, chống, cứu đói, đẩy nhanh tiến độ xây dựng một số công trình thủy lợi phục vụ sản xuất. Đặc biệt là triển khai thực hiện các dự án từ chương trình 327, chương trình định canh định cư bằng nguồn vốn Nhà nước.
Song song với việc phát triển sản xuất, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc, công tác an ninh trật tự an toàn xã hội được củng cố, công tác xây dựng lực lượng vụ trang sẳn sàng chiến đấu từng bước đi vào nề nếp.
Thực hiện Chỉ thị 14-CT/TW, ngày 19.11.1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) và Thông tri số 20-TT/TU, ngày 8.12. 1992 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng về "Đổi mới và chỉnh đốn Đảng", đầu năm 1993, Ban Thường vụ Huyện ủy Trà My tổ chức hội nghị quán triệt và thông qua Chương trình hành động của Đảng bộ huyện, trong đó trọng tâm là tăng cường công tác xây dựng Đảng trên các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Sau hơn một năm triển khai thực hiện, công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ có nhiều tiến bộ, tạo được sự thống nhất cao về ý chí và hành động trong toàn Đảng bộ, xây dựng được phong trào quần chúng rộng khắp, tiến công mạnh vào mục tiêu xoá đói giảm nghèo cũng như giữ nghiêm kỷ cương kỷ luật trong Đảng. Nếu như năm 1992, kết quả phân loại chất lượng tổ chức cơ sở Đảng, toàn Đảng bộ có 04 tổ chức cơ sở Đảng đạt danh hiệu Trong sạch vững mạnh, 35 tổ chức cơ sở Đảng đạt loại khá và 10 tổ chức cơ sở Đảng yếu kém, thì đến năm 1993, trong 47 tổ chức cơ sở Đảng( giải thể 2 tổ chức vì không đủ đảng viên do nghỉ chế độ), qua phân loại có 10 tổ chức cơ sở Đảng đạt danh hiệu Trong sạch vững mạnh, tăng gấp 2,5 lần so với năm 1992; 29 tổ chức cơ sở Đảng đạt loại khá; tổ chức cơ sở Đảng yếu kém chỉ còn lại 03 đơn vị, giảm 1/3 so với năm 1992.
Công tác phát triển đảng viên mới được duy trì, trong hai năm 1993-1994, Đảng bộ huyện kết nạp được 52 đảng viên mới. Việc xây dựng qui chế làm việc của các tổ chức Đảng được thực hiện tốt, đến năm 1994 đã có 40/46 cấp ủy của các tổ chức Đảng đã xây dựng qui chế làm việc, 18/20 chi, đảng ủy xã, thị trấn có qui chế cấp ủy lãnh đạo, ủy ban điều hành và mặt trận, đoàn thể phối hợp.
Công tác tổ chức cán bộ có nhiều cố gắng, đến tháng 7.1994 đã có 984/1476 đảng viên đã được phân công công tác, chiếm trên 67 % tổng số đảng viên toàn đảng bộ; đã cử 14 cán bộ chủ chốt đi đào tạo tại một số trường trong tỉnh, góp phần bồi dưỡng nguồn nhân lực cho huyện trong những năm đến.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn còn một số hạn chế: Vai trò lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng còn nhiều lúng túng. Việc đề ra nghị quyết lãnh đạo thiếu cụ thể, thiếu kiểm tra nên việc triển khai khắc phục những tồn tại, hạn chế còn chậm. Một số tổ chức cơ sở Đảng chưa xây dựng được qui chế, gây khó khăn trong lãnh đạo điều hành. Trình độ, năng lực của cán bộ, đảng viên về nhiều mặt còn yếu kém, nhất là đảng viên ở cấp xã...
Từ kết quả đạt được cũng như một số tồn tại trong công tác xây dựng Đảng, Huyện ủy đã đề ra một số chỉ tiêu và biện pháp khắc phục như: đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tiến hành khảo sát chất lượng tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên, phấn đấu hàng năm tăng từ 15-20 % tổ chức cơ sở Đảng đạt danh hiệu Trong sạch vững mạnh và giảm từ 25-30 % tổ chức cơ sở Đảng yếu kém. Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, chuẩn bị tốt đội ngũ cán bộ của huyện và xã vừa đảm bảo chất lượng và đồng bộ. Đổi mới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng.
Công tác vận động quần chúng đạt nhiều kết quả, từ sau khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng( khóa VI), mặt trận và các đoàn thể nhân dân từ huyện đến cơ sở được củng cố và từng bước đổi mới phương thức vận động quần chúng thực hiện các phong trào hành động cách mạng, nổi bật là các phong trào: “Phụ nữ hai giỏi”, “Nông dân sản xuất giỏi”, Hội cựu chiến binh với phong trào “Củng cố hội và làm nòng cốt ở cơ sở”.
Sau hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIII, tuy đã đạt được một số thành tựu đáng phấn khởi, song vẫn còn một số chỉ tiêu đại hội đề ra vẫn chưa đạt. Đây là vấn đề đặt ra cho Đảng bộ và nhân dân huyện là phải nỗ lực phấn đấu mới hoàn thành các chỉ tiêu phát triển kinh tế- xã hội đã đề ra.
Thực hiện Hướng dẫn của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc tổ chức Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ, từ ngày 2 đến ngày 4.5.1994, Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ Đảng bộ huyện Trà My ( khóa XIII) được tổ chức tại Hội trường Ủy ban Nhân dân huyện. Tham dự Hội nghị có 107 đại biểu. Về dự và chỉ đạo Hội nghị có đồng chí Mai Thúc Lân- Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy
Hội nghị bao gồm những nội dung sau: quán triệt Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng; kiểm điểm tình hình 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện khóa XIII; đề ra chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp trong những năm còn lại của nhiệm kỳ Đại hội. Ngoài ra, tại hội nghị này, huyện ủy còn tiến hành bầu bổ sung Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XIII gồm 5 đồng chí.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) về "Phát triển công nghiệp và công nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới", ngày 3.10.1994, Huyện ủy tổ chức Hội nghị đánh giá lại thực trạng tình hình phát triển công nghiệp, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất trên địa bàn huyện thời gian qua và đề ra phương hướng, nhiệm vụ trong thời gian đến. Đánh giá kết quả đạt được, Hội nghị nêu rõ: Trong những năm qua, cơ cấu kinh tế lâm- nông- ngành nghề có chuyển biến tích cực theo hướng đa dạng hóa và sản xuất hàng hóa, bước đầu áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nhờ đó năng suất, sản lượng lương thực tăng lên đáng kể. Tổng sản lượng lương thực hàng năm đạt bình quân từ 12.000-13.000 tấn; kinh tế lâm nghiệp bước đầu chuyển dịch theo hướng xã hội hóa lâm nghiệp, các lâm trường quốc doanh đã ổn định tổ chức và duy trì hoạt động, đầu tư thực hiện các dự án 327 gắn với định canh định cư, từng bước giao đất giao rừng đến các hộ sản xuất. Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp từng bước ổn định và phát triển; Nhà máy thủy điện Nước Oa hoạt động ổn định, hoàn thành tuyến đường dây tải điện Trà My- Tiên Phước và đã hòa vào lưới điện quốc gia. Trong hai năm 1992-1993, huyện đã thu hút trên 4,5 tỷ đồng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng mà chủ yếu tập trung cho các công trình về giao thông, thủy lợi.
Hội nghị cũng nêu lên một số hạn chế yếu kém: công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp và việc áp dụng công nghệ trên địa bàn huyện còn chậm, công nghiệp chế biến còn nhỏ bé; khả năng trang bị cho nền kinh tế quốc dân chưa đáng kể; kết cấu hạ tầng kém phát triển, trình độ công nghệ quá lạc hậu, năng suất lao động thấp, trình độ văn hóa, kỹ năng nghề nghiệp của lực lượng lao động thấp, một bộ phân công nhân lao động chưa nhận thức được vai trò và nhiệm vụ của giai cấp mình, thiếu tính tiền phong cách mạng.
Xuất phát từ đặc điểm của địa phương, Huyện ủy xây dựng Chương trình hành động đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục tiêu là: Phát triển kinh tế để đưa đời sống nhân dân thoát khỏi đói nghèo, phấn đấu đến năm 2000 xóa được hộ đói và giảm hộ nghèo còn dưới 20 %. Hạ tỷ lệ tăng dân số còn dưới 1,9 %, khắc phục tình trạng suy dinh dưỡng, giải quyết cơ bản bệnh sốt rét, bướu cổ. Huy động 80-90 % trẻ con trong độ tuổi đi học, thực hiện phổ cập tiểu học 2/3 số xã toàn huyện.
Thực hiện các mục tiêu trên, huyện đã đề ra một số chủ trương, biện pháp thực hiện như: chú trọng về công tác qui hoạch, phân vùng, xây dựng các chương trình dự án, về đầu tư và tín dụng cho các dự án, về công tác khuyến lâm, khuyến nông và khoa học công nghệ và công tác tổ chức cán bộ.
Thực hiện Nghị quyết 22-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa VII) và Nghị quyết 22- NQ/TU của Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng về thực hiện chính sách xã hội đối với miền núi, Đảng bộ huyện tập trung chỉ đạo thực hiện và bước đầu đem lại kết quả, nhất là trên lĩnh vực giáo dục và y tế. Tỷ lệ học sinh ra lớp hàng năm tăng, tình trạng học sinh bỏ học ngày càng giảm( năm học 1993-1994 còn 5,4 %); số người được khám chữa bệnh và có sổ y tế ngày càng tăng, các dịch bệnh như sốt rét, thổ tả...được ngăn ngăn ngừa và dập tắt kịp thời.
Tuy nhiên, thực trạng tình hình kinh tế - xã hội của địa phương còn rất nhiều khó khăn. Vào thời điểm tháng 10.1994, toàn huyện có 6973 hộ thì tỷ lệ hộ đói nghèo chiếm đến 61,7 %; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn quá lớn (2,5 %). Nhu cầu về giao thông thủy lợi, điện, trường học, trạm xá còn rất lớn và bức thiết song chưa được đáp ứng đáng kể.
Ngày 20.11.1994, cử tri các xã vùng trung và vùng thấp trong huyện hăng hái đi bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh khoá V, Hội đồng Nhân dân huyện khoá VI và Hội đồng Nhân dân cấp xã. Trước đó, ngày 17.11.1994, do điều kiện đi lại khó khăn, các xã vùng cao đã tham gia bầu cử trước. Cuộc bầu cử đã thành công tốt đẹp, toàn huyện có 23.187 cử tri tham gia bầu cử, đạt tỷ lệ 99,75 %.
Nhằm đánh giá hai năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) về các lĩnh vực văn hóa xã hội, ngày 29.12.1994, Huyện ủy tổ chức Hội nghị sơ kết quá trình triển khai thực hiện, đề ra phương hướng nhằm phát triển công tác giáo dục, công tác văn hóa thông tin, y tế và công tác dân số- kế hoạch hóa gia đình trong những năm đến, góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Ngày 29.8.1994, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh qui định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng" để ghi nhớ công lao to lớn của các bà mẹ đã có nhiều cống hiến, hy sinh cho Tổ quốc. Vinh dự trong đợt đầu tiên huyện Trà My có 4 mẹ được tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Đây là niềm vinh dự, tự hào của nhân dân Trà My nói chung và của phụ nữ huyện nhà nói riêng, là nguồn cổ vũ mạnh mẽ để các bà, mẹ, chị vươn lên trong phong trào thi đua “Hai giỏi” trong công cuộc đổi mới đất nước.
Để kịp thời củng cố lại Thường trực Huyện uỷ, sau khi đồng chí Trần Lợi, Phó Bí thư Huyện uỷ được điều về tỉnh, ngày 18.1.1995, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã họp và bầu đồng chí Đinh Mướk giữ chức Phó Bí thư Huyện uỷ. Tiếp đến, ngày 1.4.1995, Huyện ủy tiếp tục bầu đồng chí Huỳnh Tấn Sâm làm Phó Bí thư Huyện ủy thay đồng chí Nguyễn Chiến Hữu được điều về tỉnh.
Thêm một vinh dự cho Đảng bộ và nhân dân huyện Trà My nói chung và xã Trà Cót nói riêng, ngày 30.8.1995, Chủ tịch nước ký quyết định tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Trà Cót vì đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Nhìn chung, sau 5 năm (1991-1995) thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIII, tình hình các mặt của huyện có sự chuyển biến mặnh mẽ.
Về lĩnh vực nông, lâm nghiệp của huyện có bước phát triển. Triển khai thực hiện các dự án 327 ở 8/20 xã, thị trấn với tổng vốn đầu tư trên 5,5 tỷ đồng, mỗi năm nhân dân trồng mới bình quân 500.000 cây quế. Trong hai năm 1994-1995, huyện đã tiến hành giao trên 16.000 ha rừng cho hộ nông dân quản lý và gần 7.300 ha rừng được khoanh nuôi bảo vệ. Trong sản xuất nông nghiệp, nhờ chuyển dịch cơ cấu cây trồng, con vật nuôi nên tổng sản lượng lương thực năm 1995 tăng hơn 1991 hơn 800 tấn, đàn lợn tăng 109,3 %, đàn bò tăng 117 %, trong đó có 650 con bò lai Sind, đàn trâu tăng 128 %.
Công tác thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp được đầu tư đúng mức, huyện đã tập trung hoàn thành một số công trình: thủy lợi Tắk Chanh, đập Gò Tát, Nước Trắng, Suối Dứa và Suối Mơ với tổng kinh phí trên 461 triệu đồng. Ngoài ra còn sửa chữa một số công trình thủy lợi khác như Nước Rinh, Krét, Suối Đá, Tắk Nầm, Nước Xu, Đại An, Nước Rôn...Hàng năm, có 40-50 ha ruộng mới được khai hoang;
Trong công tác định canh định cư, huyện đã đầu tư 4,277 tỷ đồng cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển vốn rừng, tách hộ dãn dân, tham gia vào chương trình xóa đói giảm nghèo.
Việc đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng có nhiều cố gắng, huyện đã làm mới cầu treo Trà Cang, tu sửa cầu treo Nước Là, nâng cấp 10 km đường Tắk Pỏ- Tắc Chanh, làm mới 7,8 km đường Trà Đông- Trà Cót, tu sửa đường Dương Yên- Trà Dương với tổng kinh phí đầu tư trên 2,5 tỷ đồng.
Lĩnh vực phân phối lưu thông có nhiều cố gắng.Công tác thu thuế có nhiều tích cực, kết quả thu hàng năm đều đạt và vượt kế hoạch, có năm thu đạt từ 181-198,5%.
Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội: công tác giáo dục đào tạo từng bước ổn định và có mặt phát triển, chú ý đến công tác giáo dục truyền thống cách mạng, đào tạo giáo viên tại chỗ, củng cố cơ sở vật chất, thực hiện mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học được 1/4 số xã, tỷ lệ học sinh ra lớp tăng bình quân hằng năm gần 5 %.
Các hoạt động văn hóa thông tin, thể dục thể thao, truyền thanh truyền hình có nhiều khởi sắc. Chương trình xóa đói giảm nghèo đạt được nhiềư kết quả. Trong hai năm 1994-1995, huyện đã giảm 15 % trong tổng số 65 % số hộ đói nghèo của toàn huyện.
Công tác an ninh quốc phòng được chú trọng, tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện được giữ vững, phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc được triển khai đều khắp và có kết quả.
Công tác xây dựng Đảng được tăng cường. Cùng với việc đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, Đảng bộ quan tâm đến việc sắp xếp, kiện toàn lại các tổ chức cơ sở Đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII), từng bước giảm dần các tổ chức cơ sở yếu kém. Công tác phát triển đảng viên mới được chú trọng, trong 5 năm phát triển được gần 200 đảng viên mới; riêng trong năm 1995 phát triển được 48 đảng viên. Công tác đào tạo lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chú chốt được quan tâm đúng mức, nhiệm kỳ qua hơn 100 cán bộ được cử đi học tại các trường trong tỉnh.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, tình hình mọi mặ của địa phương vẫn còn nhiều vấn đề hạn chế. Đời sống của nhân dân tuy được cải thiện một bước nhưng vẫn còn khó khăn, nhất là các xã vùng cao, tỷ lệ hộ đói nghèo vẫn còn khá cao so với các huyện miền núi khác. Công tác xây dựng Đảng còn một số hạn chế, nhất là công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ cơ sở.
Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương và của tỉnh về việc tổ chức đại hội các cấp, tiến tới Đại hội VIII của Đảng, từ ngày 6 đến ngày 8.3.1996, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Trà My lần thứ XIV, nhiệm kỳ 1996-2000 được tiến hành tại Hội trường Trường Đảng (nay là Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện). Tham dự đại hội có 204 đại biểu, thay mặt cho gần 1.700 đảng viên trong toàn Đảng bộ. Về dự và chỉ đạo Đại hội có đồng chí Phạm Bân- Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh.
Đại hội đã đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIII, đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội của huyện thời kỳ 1996-2000; thông qua bản góp ý dự thảo văn kiện Đại hội VIII của Đảng và văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI.
Về phương hướng, nhiệm vụ trong những năm 1996-2000, Đại hội nêu rõ: Phát huy cao độ truyền thống cách mạng, tinh thần tự lực tự cường, sử dụng có hiệu quả đầu tư của cấp trên, đẩy mạnh thực hiện xóa đói giảm nghèo, ổn định đời sống, phát triển kinh tế - xã hội, trên cơ sở thực hiện tốt công tác qui hoạch, hoàn thành cơ bản cuộc vận động định canh định cư gắn liền với xây dựng nông thôn mới. Trên cơ sở xác định cơ cấu kinh tế: Lâm- nông- công nghiệp, dịch vụ thương mại, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng hóa đa dạng, phong phú, phát triển kinh tế gắn liền với giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội, đảm bảo an ninh và trật tự an toàn xã hội. Thực hiện mục tiêu "dân no, dân yên" gắn liền với xây dựng hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh, đủ sức đảm đương nhiệm vụ (1).
Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Trà My khoá XIV, nhiệm kỳ (1996-2000) gồm 33 đồng chí; bầu Ban Thường vụ Huyện uỷ gồm 8 đồng chí. Đồng chí Hồ Văn Reo được bầu lại làm Bí thư; đồng chí Đinh Mướk và Huỳnh Tấn Sâm được bầu làm Phó Bí thư. Đại hội bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI gồm 11 đại biểu chính thức và 2 đại biểu dự khuyết.
Hưởng ứng các phong trào thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội VIII của Đảng, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện, Đảng bộ và nhân dân huyện Trà My đã đạt được nhiều thành tích đáng phấn khởi.
Trong sản xuất nông nghiệp, vụ sản xuất Đông - Xuân, Hè - Thu năm 1996 đạt năng suất cao, năng suất lúa nước tăng từ 3-4 tạ/ha so với năm 1995, tổng sản lượng lương thực đạt kế hoạch.
Ngành giáo dục đã tổ chức nhiều hoạt động hè bổ ích thiết thực cho học sinh; tổ chức tốt ngày toàn dân đưa trẻ đến trường.
Công tác lao động thương binh xã hội có nhiều cố gắng, kịp thời chi trả cho các đối tượng chính sách, phối hợp với các đơn vị liên quan thực hiện tốt việc qui tập mộ liệt sĩ. Thực hiện tốt các phong trào ủng hộ nhân dân Cu Ba, ủng hộ "Quỹ phụ nữ nghèo", “Tháng hành động vì trẻ em", chăm sóc người già cô đơn, người tàn tật. Trong năm đã huy động các tầng lớp nhân dân đóng góp vào các quỹ được 13.090.000 đồng.
Cũng trong năm 1996, toàn huyện hưởng ứng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư" do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động. Đây là cuộc vận động có ý nghĩa to lớn và được tiến hành lâu dài, thường xuyên với việc lồng ghép nhiều cuộc vận động, bao hàm nhiều hoạt động như: Xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, thực hiện chương trình dân số kế hoạch hoá gia đình, xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, xây dưng nếp sống văn minh, phong trào nông dân sản xuất giỏi, phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình, tuổi trẻ giữ nước, thanh niên lập nghiệp...Để thực hiện cuộc vận động đạt kết quả, Huyện ủy chủ trương thành lập Ban chỉ đạo do đồng chí Phó Chủ tịch ủy ban Nhân dân huyện làm Trưởng Ban. Qua gần một năm thành lập, Ban chỉ đạo đã xây dựng được 30 khu dân cư với 10 tổ đoàn kết. Nhiều tổ đã đi vào hoạt động có hiệu quả, phát huy được vai trò của tổ đoàn kết.
Thực hiện Chỉ thị 59- CT/TW, ngày 27.9.1995 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) về việc chăm sóc người cao tuổi, Huyện ủy đã giao cho Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện phụ trách. Theo thống kê, đến năm 1996, toàn huyện có 4.201 người cao tuổi, chiếm 8,7 % dân số. Huyện chọn 3 địa phương là thị trấn Trà My, xã Trà Dương và Trà Giang làm điểm. Từ năm 1996-1998, huyện đã tổ chức cho 100 % hội viên học tập Điều lệ Hội, mở lớp tập huấn động viên các cụ tham gia hòa giải, thực hiện khẩu hiệu “Trẻ xông pha, già mẫu mực".
Có thể nói rằng, với những thành tựu đạt được trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới (1986-1996) đã tạo thế và lực để Đảng bộ và nhân dân huyện Trà My bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Từ ngày 1.1.1997, thực hiện Nghị quyết kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX , tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng được tách thành 2 đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương là tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng. Huyện Trà My là đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Quảng Nam và Đảng bộ Trà My trực thuộc Đảng bộ lâm thời tỉnh Quảng Nam.
Ngày 20.7.1997 được chọn làm ngày bầu cử Quốc hội khóa X và bầu cử bổ sung Hội đồng nhân dân các cấp, Huyện ủy Trà My đã tích cực chỉ đạo công tác chuẩn bị bầu cử trên địa bàn huyện. Ngày 17.7.1997, do điều kiện đi lại khó khăn, được sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, huyện tổ chức bầu cử sớm ở các xã Trà Cang, Trà Linh, Trà Vân, Trà Giáp, Trà Leng và Trà Nam. Ngày 20.7.1997, các xã còn lại của huyện tiến hành bầu cử theo đúng thời gian qui định. Kết thúc đợt bầu cử, toàn huyện có 99,8 % cử tri tham gia bầu cử Quốc hội và 100 % cử tri đã tham gia bầu cử bổ sung đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Đây là lần đầu tiên của huyện có tỷ lệ cử tri tham gia bầu cử cao nhất từ trước đến nay.
Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy lâm thời Quảng Nam về việc tổ chức Đại hội các cấp, tiến tới đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 1997-2000, từ ngày 24 đến ngày 25.8.1997, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Trà My lần thứ XV được tiến hành tại Hội trường ủy ban nhân dân huyện. Tham dự đại hội có 143/150 đại biểu ở 42 tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc Đảng bộ huyện. Về dự và chỉ đạo Đại hội có đồng chí Lương Văn Hận- Uỷ viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy.
Đại hội tập trung một số nội dung: thông qua bản góp ý dự thảo văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII và bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ cấp trên. Kết quả, Đại hội đã bầu 13 đại biểu (trong đó gồm 11 đại biểu chính thức và 2 đại biểu dự khuyết) tham dự Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII.
Nhằm ổn định tổ chức bộ máy cán bộ, đảm bảo lãnh đạo thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện trong tình hình mới, ngày 12.11.1997, Huyện ủy Trà My khóa XIII triệu tập Hội nghị lần thứ 10 để bầu bổ sung ủy viên Ban Thường vụ và các chức danh chủ chốt của Huyện ủy. Kết quả, Hội nghị bầu đồng chí Huỳnh Tấn Sâm giữ chức Bí thư Huyện ủy, đồng chí Nguyễn Thành Vân giữ chức Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy; bầu bổ sung đồng chí Ngô Việt Trà và đồng chí Hồ Thanh Bá vào Ban Thường vụ Huyện ủy. Ngoài ra, Hội nghị còn công bố quyết định số 235/ QĐ-TU, ngày 3.10.1997 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam về việc chuẩn y bổ sung Ban chấp hành Đảng bộ Huyện Trà My khóa XIII gồm 3 đồng chí(1) vào Ban Chấp hành Đảng bộ huyện.
Thực hiện Quyết định số 100- QĐ/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) và Thông tri số 09 - TT/TU, ngày 5. 9.1996 của Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng về việc thành lập trung tâm bồi dưỡng chính trị các huyện, thị, ngày 5.3.1997, Ban Thường vụ Huyện ủy có Quyết định 235- QĐ/HU “về việc thành lập Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện Trà My" (2). Nhiệm vụ của Trung tâm được xác định là mở lớp đào tạo, bồi dưỡng chương trình lý luận chính trị, nghiệp vụ cho cán bộ, đảng viên từ huyện đến cơ sở. Huyện ủy giao cho Ban Tuyên giáo Huyện ủy hướng dẫn, chỉ đạo nội dung, chương trình đào tạo.
Việc ra đời Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện đã góp phần nâng cao lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Nhân kỷ niệm 50 năm ngày Thương binh- Liệt sĩ (27.7.1947-27.7.1997), Huyện ủy Trà My đã chỉ đạo các ngành, địa phương trong huyện tổ chức các hoạt động tình nghĩa, trong đó nổi lên nhất là tìm kiếm và quy tập mộ liệt sĩ vào nghĩa trang, vận động đóng góp qũy đền ơn đáp nghĩa, tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao. Kết quả, trong đợt này, huyện đã vận động cán bộ, đảng viên và nhân dân đóng góp được 21.971.000 đồng vào quỹ đền ơn đáp nghĩa, quy tập được 12 mộ liệt sĩ vào nghĩa trang, vận động xây dựng 1 ngôi nhà tình nghĩa và sửa chữa 7 ngôi nhà tình nghĩa, tặng 51 sổ tiết kiệm cho gia đình chính sách.
Thực hiện Chỉ thị 04-CT/TU, ngày 12.7.1997 của Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Quảng Nam “về việc Xây dựng thôn - bản văn hóa, cơ quan văn hóa”, Huyện ủy chỉ đạo các ngành liên quan đẩy mạnh việc xây dựng nếp sống văn hóa trên địa bàn huyện với những nội dung phù hợp với đặc điểm của địa phương,.
Triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung Đảng khóa VIII về giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ, ngày 1.12.1997, Huyện ủy tổ chức hội nghị quán triệt và đề ra chương trình hành động gồm một số nội dung sau:
- Phấn đấu đưa trẻ em ở độ 5 tuổi đi học chương trình mẫu giáo lớn đạt từ 80-100 % đối với các xã vùng thấp và từ 40-50 % các em ở các xã vùng trung, vùng cao.
- Duy trì kết quả phổ cập tiểu học, xóa mù chữ, tiến tới phổ cập trung học cơ sở trong độ tuổi, đạt từ 20-25 % số xã, thị trấn.
- Phấn đấu từ 80-100 % số trường tiểu học khu vực thị trấn Trà My, Trà Đông, Trà Dương, Trà Giang và từ 20-25 % các trường còn lại thực hiện có chất lượng chương trình 165 tuần, đảm bảo đầy đủ chương trình 9 môn do Bộ Giáo dục - đào tạo qui định và có từ 3-5 trường dạy 2 buổi trong ngày. Nâng tỷ lệ trẻ em tốt nghiệp tiểu học ở độ tuổi 11 lên 70-80 %, học sinh trung học cơ sở tốt nghiệp đạt 85-95 % và học sinh trung học phổ thông tốt nghiệp đạt 90-98 %. Hàng năm, đảm bảo từ 25-30 % số học sinh trung học phổ thông thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề.
- Hàng năm đào tạo từ 20-25 % lao động tại các trung tâm giáo dục thường xuyên, hướng nghiệp dạy nghề
Ngày 22.6.1998, Chính phủ có Nghị định số 43/1998/NĐ-CP về việc chia xã Trà Vân thành hai đơn vị hành chính là xã Trà Vân và xã Trà Vinh. Huyện uỷ Trà My đã chỉ đạo tốt việc chia xã lần này.
Ngày 1.8.1998, Huyện ủy tổ chức Hội nghị nhằm đánh giá tình hình thực hiện Chỉ thị 29- CT/TW, ngày 8.11.1993 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với cơ quan bảo vệ pháp luật". Về kết quả thực hiện, Hội nghị nêu rõ: Triển khai Chỉ thị 29 đã góp phần tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của các cấp ủy Đảng trong việc quan tâm lãnh đạo các cơ quan bảo vệ pháp luật. Sau 5 năm thực hiện, hoạt động của cơ quan bảo vệ pháp luật có chuyển biến mạnh mẽ. Trong đó đáng chú ý: ngành công an phát hiện xử lý 161 vụ, xử lý hành chính 104 vụ; ngành kiểm sát thụ lý 168 vụ xâm phạm trật tự trị an xã hội, 18 vụ kiểm sát tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội, cùng với công an thụ lý, khởi tố, truy tố 52 vụ vi phạm trật tự trị an xã hội, bắt giữ xử lý 273 đối tượng, phê giam 65 tên tội phạm; ngành tòa án thụ lý giải quyết 206 vụ, trong đó án hình sự 50/56 bị cáo, án dân sự 156 vụ, ra quyết định phạt tù 48 bị án; ngành tư pháp và thi hành án đã thành lập hội đồng tuyên truyền pháp luật, tham mưu Ủy ban Nhân dân huyện bải bỏ 179 văn bản, 46 văn bản đề nghị sửa đổi bổ sung; ngành thanh tra đã phối hợp thường xuyên với các ngành liên quan thanh tra xử lý 8 cán bộ nhân viên vi phạm, thu về cho công quỹ 333.820.948 đồng, 16,8 m3 gỗ các loại, kết quả đó đã góp phần đấu tranh chống các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh tế, xã hội.
Ngày 22.10.1998, Huyện ủy tổ chức Hội nghị quán triệt và đề ra Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về các vấn đề kinh tế, xã hội của đất nước. Chương trình hành động của huyện đến năm 2000 gồm một số nhiệm vụ trọng tâm là:
- Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và điều chỉnh cơ cấu đầu tư nông lâm-công nghiệp chế biến- dịch vụ đạt tỷ lệ: 60 %- 25 %- 15 %. Trong 60 % giá trị nông- lâm nghiệp, phải chuyển mạnh cơ cấu cây trồng, con vật nuôi, trong đó, lâm nghiệp đạt 40 %, nông nghiệp đạt 20%.
- Đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với mục tiêu xóa đói giảm nghèo mỗi năm từ 10-15 %.
- Đẩy mạnh công tác đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực.
Từ đầu năm 1999, Huyện ủy Trà My tổ chức hội nghị bàn giải pháp thực hiện Nghị quyết 02-NQ/TU, ngày 22.10.1998 của Tỉnh ủy Quảng Nam “về xây dựng và phát triển giao thông nông thôn đến năm 2000-2005". Hội nghị nêu rõ việc phát triển giao thông của huyện là yêu cầu, nhiệm vụ bức thiết làm tiền đề cho việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trước mắt cũng như lâu dài.
Về nhiệm vụ trước mắt, hội nghị tập trung lên một số nhiệm vụ trọng tâm như: sửa chữa, nâng cấp và từng bước hoàn chỉnh một số tuyến đường đã có như tuyến đường Trà My- Tắk Pỏ- Tắk Chanh, ngã ba Dương Yên- Trà Đông- Trà Nú- Trà Cót, Trà Giáp- Trà Giác, Bưu điện- Trà Giang; đảm bảo giao thông cho các loại xe cơ giới, trước mắt là xe tải, xe khách, xe công vụ đi lại an toàn. Đối với các tuyến đường liên xã, liên thôn, huyện cần đầu tư phát triển về chiều dài và qui mô, hệ thống cầu treo giao thông nông thôn phải đảm bảo an toàn cho nhân dân đi lại, góp phần thúc đẩy kinh tế- xã hội phát triển, thực hiện xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an ninh quốc phòng.
Từ khi triển khai thực hiện Nghị quyết 02 của Tỉnh ủy, trong hơn 3 năm (2000-2003), huyện đã tập trung phát triển mạng lưới giao thông trên toàn huyện, nhất là các xã vùng cao, xây mới được một số cầu qua sông, đảm bảo an toàn cho việc đi lại của nhân dân các vùng, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy kinh tế- xã hội trên địa bàn huyện phát triển thêm một bước.
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị 14-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) về “củng cố tổ chức, phát huy tác dụng tích cực của Hội Chữ thập đỏ" ở địa bàn huyện, tháng 10.1998, Huyện ủy Trà My tổ chức Hội nghị bàn giải pháp thúc đẩy hoạt động của Hội chữ thập đỏ huyện trong những năm đến. Đánh giá kết quả đạt được, Hội nghị nhấn mạnh: Từ vài cơ sở hội của những năm 1989 - 1990, sau 10 năm xây dựng và phát triển, Hội chữ thập đỏ huyện thành lập được 9 tổ chức cơ sở hội với 769 hội viên, vận động được hàng trăm triệu đồng, hàng trăm tấn gạo, hàng ngàn bộ quần áo, hàng trăm cơ số thuốc, góp phần cứu giúp đồng bào vượt qua thiên tai, hoạn nạn, giúp gia đình neo đơn cải thiện đời sống.
Một vinh dự cho Đảng bộ và nhân dân huyện Trà My nói chung, Đảng bộ và nhân dân xã Trà Đốc nói riêng là ngày 28.8.1998, Chủ tịch nước có quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Trà Đốc vì đã có những thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đây là nguồn cổ vũ lớn lao giúp Trà Đốc từng bước vượt qua khó khăn, vươn lên xây dựng quê hương ngày càng phát triển, xứng đáng với quê hương anh hùng.
Ngày 15.9.1998, Huyện ủy tổ chức hội nghị quán triệt và đề ra Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung Đảng khóa VIII “về chiến lược cán bộ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". Trên cơ sở tình hình cán bộ và công tác cán bộ của địa phương trong những năm qua, Chương trình hành động của Huyện ủy đề ra một số mục tiêu cơ bản trong công tác cán bộ đến năm 2005 là:
+ Ở cấp huyện: Đến năm 2005, cán bộ lãnh đạo do Huyện ủy quản lý phải có từ 65-70% đạt trình độ cao đẳng, đại học về chuyên môn; 80-85% có trình độ trung, cao cấp về lý luận chính trị.
+ Ở cấp xã: cán bộ chủ chốt phải có 100 % tốt nghiệp cấp II, 25-30 % có trình độ trung cấp về chuyên môn, 100 % có trình độ trung cấp lý luận chính trị.
Ngày 4.12.1998, Huyện ủy tổ chức hội nghị quán triệt và đề ra Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) "về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", trong đó đề ra 8 mục tiêu của huyện thực hiện đến năm 2000 gồm: 40-50 % xã, thị trấn có thiết chế văn hóa để sinh hoạt cộng đồng trong các kỳ lễ hội và văn hóa văn nghệ; 100 % số xã có điểm thôn văn hóa ( 21 điểm/ 21 xã). Phấn đấu 50 % số thôn, bản này đạt tiêu chuẩn thôn, bản văn hóa; các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể, doanh nghiệp, trường học...đạt 100 % đơn vị văn minh; 40 % số hộ được xem truyền hình; mỗi người dân được xem 2 lượt chiếu bóng/ năm và 1-2 lần xem biểu diễn nghệ thuật/năm; số đầu sách đầu tư cho mỗi người dân 1 bản/người; 100 % cán bộ nghiệp vụ, quản lý văn hóa cấp huyện có trình độ đại học và trung cấp chuyên ngành; 60 % cán bộ quản lý văn hóa là đảng viên
Thực hiện Chỉ thị 34-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng trong trường học, trong năm 1998, huyện đã tổ chức lớp bồi dưỡng đối tượng Đảng cho gần 180 đoàn viên ưu tú trong ngành giáo dục, thành lập 8 chi bộ trường học và đã có 23 trường học trong tổng số 28 trường học của huyện có đảng viên
Một sự kiện lớn diễn ra ở huyện Trà My trong dịp kỷ 68 năm ngày thành lập Đoàn, ngày 26.3.1999, Trung ương Đoàn và Tỉnh Đoàn Quảng Nam tổ chức cho đoàn viên thanh niên các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên về thăm căn cứ địa của Khu uỷ V tại Nước Oa, Trà My.
Đây là đợt hoạt động “Về nguồn”, thông qua việc gặp gỡ với các đồng chí nguyên lãnh đạo Khu uỷ, Bộ Tư lệnh Quân khu V, các ngành, đoàn thể của Khu uỷ V và nhân dân huyện Trà My anh hùng...đã góp phần giáo dục cho đoàn viên và thanh niên ghi nhớ công lao của các thế hệ đi trước.
Cũng trong cuộc hành quân này, tuổi trẻ các tỉnh miền Trung- Tây Nguyên đã tổ chức một số hoạt động tình nghĩa như gắn bia tưởng niệm, bàn giao hai phòng học và ra mắt làng Thanh niên Nước Oa.
Một chủ trương quan trọng của Huyện ủy khóa XIV là ngày 4.8.1999, Huyện ủy có Nghị quyết 04-NQ/HU “về một số vấn đề sản xuất nông nghiệp và nông thôn đến năm 2000-2005 và những năm tiếp theo". Trên cơ sở đánh giá tình hình sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và nông thôn trên địa bàn huyện trong những năm qua, Huyện ủy đã đề ra một số mục tiêu trong những năm đến như sau:
- Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, để phát triển theo hướng nông, lâm nghiệp - công nghiệp chế biến- dịch vụ đạt tỷ lệ tương ứng 60 % (nông lâm nghiệp)- 25 % (công nghiệp chế biến) - 15 % (dịch vụ). Trong nông, lâm nghiệp phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng, con vật nuôi để đạt 50 % trong nông nghiệp, 20 % trong lâm nghiệp và 30 % trong chăn nuôi. Phấn đấu đạt sản lượng lương thực hàng năm từ 15.000- 16.000 tấn, đảm bảo bình quân lương thực đầu người từ 200 kg lên 280 kg/ năm. Đến năm 2000 cơ bản xóa hộ đói, giảm tỷ lệ đói nghèo 10 %, năm 2005 còn 30 %
- Đẩy mạnh trồng rừng phủ xanh đất trống đồi trọc. Từ năm 1999-2005 phấn đấu trồng thêm 16.500 ha rừng, khoanh nuôi bảo vệ rừng tự nhiên 6.500 ha, bảo vệ tốt rừng tự nhiên hiện có và trên 2.000 ha rừng đã trồng, nâng độ che phủ của rừng từ 55-60 %.
- Tiếp tục triển khai các dự án của chương trình mục tiêu về định canh định cư, hoàn thành cơ bản các trung tâm cụm xã Tắk Pỏ, Tắk Chanh.
Nghị quyết 04 - NQ/HU của Huyện ủy ra đời đã đáp ứng nguyện vọng của đông đảo nhân dân, góp phần nâng cao nhận thức trong các cấp ủy Đảng, chính quyền về đẩy mạnh phát triển nông nghiệp và nông thôn ở miền núi. Qua ba năm triển khai thực hiện bước đầu đã đạt được một số kết quả đáng kể.
Trước hết, về nông nghiệp, công tác chuyển dịch cơ cấu cây trồng, chuyển đổi mùa vụ, chuyển giao và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất được đẩy mạnh, từng bước làm thay đổi tập quán canh tác lạc hậu. Trong hai năm, đã có 1.683/8.500 hộ, chiếm 19,8 % làm ăn theo phương thức sản xuất mới, nâng tổng số hộ dân trên địa bàn huyện biết áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật lên 4.003/8.500 hộ, chiếm 47 %.
Nhờ công tác chuyển dịch cơ cấu và đa dạng hóa cây trồng, tăng cường các biện pháp thâm canh, xen canh, tăng vụ, hàng trăm hộ nông dân ở các địa phương như Trà Dương, thị trấn Trà My, Trà Giang, Trà Bui, Trà Giác...thoát khỏi đói, nghèo, nhiều hộ vươn lên làm giàu, mua sắm được xe máy, ti vi và nhiều vật dụng có giá trị khác trong gia đình.
Từ chỉ đạo sản xuất thử nghiệm 2 vụ/ năm đối với cây lúa nước ở xã Trà Nam, đến năm 2000, toàn huyện đã thực hiện chuyển đổi được 75/280 ha sang làm hai vụ. Các xã Trà Mai, Trà Tập, Trà Don, Trà Vân, Trà Nam là những đơn vị làm tốt công tác này. Việc đưa vào sản xuất các loại giống mới phù hợp với điều kiện đất đai, thời tiết khí hậu đã đưa năng suất và sản lượng tăng lên đáng kể, trong đó ngô tăng từ 3-4 tạ /ha, lúa tăng từ 3-3,5 tạ /ha.
Phong trào khai hoang mở rộng diện tích được nông dân hưởng ứng, năm 1999, khai hoang được 33,8 ha, năm 2000 khai hoang được 51,6 ha.
Lâm nghiệp và công tác định canh định cư có chuyển biến, trong 2 năm, huyện đã đầu tư cho công tác khoanh nuôi, tái tạo, bảo vệ và trồng rừng trên 2,7 tỷ đồng, xây dựng 6 công trình thủy lợi, sửa chữa 5 công trình nước sạch, chuyển dãn 45 hộ dân.
Phong trào phát triển cây công nghiệp, dược liệu...được đẩy mạnh. Trong hai năm, toàn huyện đã trồng 1.157 ha với 2.123.400 cây quế. Dự án phát triển và bảo vệ nguồn gien sâm K5 tại Trà Linh được Nhà nước hỗ trợ và đầu tư, bước đầu có 63 hộ nhận trồng giống sâm này.
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ thương mại từng bước được mở rộng. Đến năm 2000, có 7 xã, thị trấn có lưới điện, phục vụ cho gần 6.800 hộ.
Lĩnh vực đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng có bước phát triển mạnh, hàng trăm công trình được đầu tư xây dựng như: đầu từ 1,2 tỷ đồng xây dựng trung tâm cụm xã Trà Don, Tắk Pỏ; cải tạo nâng cấp đường Trà My- Tắk Pỏ với số vốn 34,56 tỷ đồng; dự án phá triển hạ tầng nông thôn được đầu tư bước đầu trên 3 tỷ đồng; đầu tư 4 tỷ đồng xây dựng 3 cầu treo bắc qua sông Tranh; các công trình thuộc Chương trình 135 với tổng vốn đầu tư trên 11 tỷ đồng...góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng trên địa bàn huyện.
Thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII), ngày 18.9.1999, Huyện ủy ban hành Hướng dẫn số 11/HD-HU về việc “Hướng dẫn các tổ chức cơ sở Đảng tiến hành chuẩn bị tự phê bình và phê bình trong toàn Đảng bộ”. Tiếp đến, từ ngày 6 đến ngày 8.4.2000, Ban Thường vụ Huyện ủy tổ chức sinh hoạt để kiểm điểm tập thể và 11/11 đồng chí ủy viên Thường vụ Huyện ủy, tiếp sau đó các tổ chức cơ sở Đảng từ huyện đến cơ sở tiến hành sinh hoạt kiểm điểm. Đến ngày 19.5.2000, 45/45 tổ chức cơ sở Đảng trong toàn Đảng bộ đã hoàn thành việc kiểm điểm tập thể và cá nhân cấp ủy cơ sở; lãnh đạo các cơ quan ban, ngành, địa phương.
Kết quả qua tổ chức triển khai, quán triệt nghị quyết bước đầu đạt được kết quả đáng phấn khởi: 100 % tập thể và cá nhân thuộc diện được kiểm điểm đã thấy được những mặt ưu điểm và khuyết điểm của mình; có 2 đảng bộ, 64 cá nhân xã bị xử lý kỷ luật do vi phạm nguyên tắc tổ chức của Đảng, buông lỏng vai trò lãnh đạo, quản lý, trong đó khiển trách 26 đồng chí, cảnh cáo 23 đồng chí, cách chức 04 đồng chí và khai trừ 11 đồng chí ra khỏi Đảng.
Nhờ làm tốt công tác tự phê bình và phê bình nên 45/45 tổ chức cơ sở Đảng đã tiến hành đại hội theo đúng tinh thần Chỉ thị 54 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) và Chỉ thị 24 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam. Kết quả phân loại tổ chức cơ sở Đảng năm 2000, toàn huyện có 26/45 tổ chức cơ sở Đảng đạt danh hiệu Trong sạch vững mạnh, chiếm 57,8 %, tăng gấp 2,5 lần so với năm 1994, có 15 tổ chức cơ sở Đảng đạt loại khá và giảm số tổ chức cơ sở Đảng yếu kém còn 04 đơn vị.
Ngày 14.11.1999 được quy định là ngày bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, nhiệm kỳ 1999-2004. Huyện đã tập trung chỉ đạo nên đến ngày 13.11.1999, các công việc chuẩn bị cho bầu cử được hoàn thành, song do điều kiện lũ lụt xảy ra trên địa bàn tỉnh nên đình lại. Đến ngày 28.11.1999, Trà My tiến hành bầu cử. Mặc dù trời mưa, đường sá đi lại khó khăn, song không khí của bầu cử vẫn sôi nổi, nhiều nơi tổ bầu cử đã mang thùng phiếu bầu cử đến tận nhà để cho cử tri được bầu. Kết thúc cuộc bầu cử, toàn huyện có 99,8 % cử tri đi bầu và đã bầu ra 29 đại biểu Hội đồng Nhân dân huyện khóa VII và 422 đại biểu Hội đồng Nhân dân xã.
Thực hiện Nghị định 34/CP của Thủ tướng Chính phủ về phát hành công trái xây dựng Tổ quốc, Huyện ủy đã chỉ đạo cho các ngành, đoàn thể, các địa phương phấn đấu thực hiện các chỉ tiêu của cấp trên giao. Đến cuối 1999, toàn huyện đã tham gia mua được 299,2 triệu đồng.
Từ năm 1999, Chương trình 135 của Chính phủ được triển khai trên địa bàn. Huyện ủy đã chỉ đạo tốt công tác phối hợp với các đơn vị liên quan trong việc triển khai các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở một số xã thuộc chương trình 135.
Ngày 1.12.1999, Huyện ủy Trà My tổ chức hội nghị chuyên đề để đánh giá 5 năm qua triển khai thực hiện Chỉ thị 36-CT/TW và Chỉ chị 38-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) “về công tác thể dục- thể thao" và "công tác bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em" trên địa bàn huyện. Về kết quả đạt được, hội nghị nêu rõ:
Về công tác thể dục - thể thao: Phong trào thể dục- thể thao được phát triển mạnh trong cán bộ công nhân viên chức, thanh thiếu nhi, học sinh. Đến năm 1998, toàn huyện có trên 2.000 người thường xuyên tập luyện thể dục thể thao, chiếm hơn 3 % dân số, năm 1999 tăng lên gần 3500 người, chiếm gần 6 % dân số. Qua 5 năm, số người tham gia rèn luyện thể dục thể thao ngày càng đông và ý thức tự giác được nâng lên, nhất là phong trào tập luyện thể dục vào buổi sáng.
Về công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em: tuy Ủy ban bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em huyện mới được thành lập từ năm 1995, song đã bước đầu đã cố gắng, tích cực tham mưu cho Huyện ủy, Ủy ban Nhân dân huyện về công tác được giao. Hằng năm, ngành đã vận động các tầng lớp nhân dân trong huyện thực hiện “Tháng hành động vì trẻ em" nhằm động viên phong trào toàn dân chăm lo bảo vệ và chăm sóc trẻ em.
Từ những kết quả đạt được và những tồn tại, Hội nghị nêu lên một số biện pháp nhằm đẩy mạnh phong trào thể dục- thể thao và công tác bảo vệ- chăm sóc- giáo dục trẻ em trên địa bàn huyện trong những năm đến.
Năm 2000, năm có nhiều ngày lễ kỷ niệm năm tròn năm chẳn, do đó công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng trong cán bộ, đảng viên được quan tâm. Trong năm, huyện đã mở 25 lớp, thu hút 2.041 học viên tham dự, góp phần nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương và chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, về kiến thức quản lý Nhà nước, nghiệp vụ công tác xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận và các hội đoàn thể.
Cùng với công tác giáo dục chính trị tư tưởng, công tác củng cố, kiện toàn tổ chức cơ sở Đảng được tiến hành thường xuyên, trong năm đã tiến hành củng cố chức danh lãnh đạo ở một số xã như Trà Vinh, Trà Bui, Trà Giang, Trà Giáp và đề bạt 3 phó phòng, ban ở huyện, thành lập được 8 chi bộ trường học và thành lập 2 chi bộ dân quân cơ động, kiện toàn cán bộ chủ chốt chính quyền ở một số cơ quan và các xã. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã tổ chức trao tặng Huy hiệu Đảng 40 năm, 50 năm tuổi Đảng cho một số đảng viên. Đến thời điểm năm 2003, toàn huyện có 188 đồng chí được trao huy hiệu 40 năm tuổi Đảng, 22 đồng chí được trao huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.
Thực hiện quyết định của Ban Thường vụ Liên Đoàn Lao động tỉnh Quảng Nam, ngày 16.3.2000, Liên đoàn Lao động huyện Trà My được thành lập lại để thay cho chức năng, nhiệm vụ của Ban Cán sự Công đoàn huyện thành lập năm 1995. Sau gần một năm thành lập, hoạt động của công đoàn huyện từng bước đi vào nề nếp. Kết quả phân loại thi đua năm 2000, có 2 công đoàn cơ sở vững mạnh xuất sắc được tỉnh tặng bằng khen, 6 công đoàn vững mạnh và 2 cơ sở đạt khá, đồng thời thành lập được 9 công đoàn cơ sở, phát triển thêm 20 đoàn viên mới.
Một vinh dự cho Đảng bộ và nhân dân huyện Trà My nói chung, cán bộ, đảng viên và nhân dân xã Trà Giác nói riêng là ngày 28.4.2000, Chủ tịch nước ký quyết định phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân xã Trà Giác vì đã có những thành tích xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Như vậy, đến cuối năm 2000, Trà My có 5 tập thể và 1 cá nhân được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; 15 mẹ được phong và truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.
Nhìn chung, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện khóa XIV, tình hình các mặt của huyện đều có tiến triển: Hàng năm, kinh tế của huyện đều có sự tăng trưởng, sản xuất nông lâm nghiệp gắn với định canh định cư, cơ cấu kinh tế nông lâm nghiệp, cơ cấu cây trồng tiếp tục được chuyển đổi, diện tích lúa nước được mở rộng, tổng diện tích khai hoang ruộng nước (1996-2000) đạt trên 100 ha, tổng sản lượng lương thực qui thóc bình quân hàng năm đạt 13.800 tấn, gần đạt chỉ tiêu đề ra.
Chăn nuôi tiếp tục phát triển, nhất là chương trình Sind hóa đàn bò được triển khai trên diện rộng, tổng đàn trâu tăng 16,7 %, đàn bò tăng 49 %, đàn heo tăng 17 %, gia cầm tăng 34 %.
Sản xuất lâm nghiệp được đầu tư đúng mức, tổng vốn đầu tư cho phát triển lâm nghiệp 5 năm qua hơn 8 tỷ đồng, bình quân mỗi năm trồng mới 324 ha rừng tập trung, đã tiến hành giao khoán bảo vệ rừng 6.642/72.242 diện tích rừng tự nhiên, đạt chỉ tiêu kế hoạch.
Giá trị đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng tăng nhanh, từ 1,46 tỷ đồng năm 1996 lên 29,94 tỷ đồng năm 2000; tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản đạt 64,2 tỷ đồng, trong đó ngân sách Trung ương và tỉnh chiếm 85,5 %; nhiều công trình được tiếp tục nâng cấp đưa vào sử dụng
Trên lĩnh vực văn hóa xã hội có nhiều tiến bộ. Giáo dục đào tạo phát triển về qui mô và nâng dần chất lượng, tỷ lệ huy động học sinh ra lớp hàng năm đạt 90 %, học sinh tốt nghiệp các cấp đạt 85 %; chương trình y tế quốc gia được triển khai rộng khắp; mạng lưới y tế cơ sở được mở rộng, đã đào tạo 143 y tá thôn bản phát huy tác dụng tốt, chương trình tiêm chủng mở rộng được triển khai 21/21 xã với 94 % số thôn. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, truyền thanh, truyền hình có chuyển biến. Huyện đã xây dựng được 28 thôn văn hóa gắn liền với đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Chương trình xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống nhân dân được quan tâm đúng mức, tỷ lệ đói nghèo hàng năm giảm dần từ 65 % năm 1994 đến năm 2000 còn 41,5 %.
Tình hình an ninh quốc phòng được giữ vững, chỉ tiêu tuyển quân hàng năm đạt 100 %, hoàn thành chỉ tiêu huấn luyện hàng năm, lực lượng dự bị động viên được củng cố, tỷ lệ đảng viên trong lực lượng dân quân đạt 5,3 %, có 17/17 chi bộ quân sự xã, thị trấn đạt danh hiệu vững mạnh. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc được duy trì thường xuyên, an ninh nông thôn được giải quyết tốt, không xảy ra "điểm nóng".
Công tác xây dựng Đảng được tăng cường, nhất là từ khi triển khai thực hiện 5 chuyên đề và thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII), Đảng bộ đã kết nạp được 299 đảng viên mới, trong đó có 62 đồng chí có trình độ đại học, cao đẳng, 56 đồng chí có trình độ cấp III, tăng gần 1,5 lần so với thời kỳ 1991-1995, đưa đi đào tạo ở Trung ương, ở tỉnh và tổ chức đào tạo tại địa phương cho 201 đồng chí trung cấp, cao cấp lý luận chính trị và chuyên ngành, tăng 94 đồng chí so với đầu nhiệm kỳ. Chất lượng tổ chức cơ sở Đảng ngày càng nâng lên, đến năm 1999 có 28 tổ chức cơ sở Đảng đạt danh hiệu đơn vị trong sạch vững mạnh, tăng 16,1 % so với đầu nhiệm kỳ, tổ chức cơ sở Đảng yếu kém có 04 tổ chức, so với đầu nhiệm kỳ giảm 20,9%. Công tác kiểm tra của Đảng bộ được tiến hành thường xuyên, đảm bảo đúng qui trình, nguyên tắc, Điều lệ Đảng. Cả nhiệm kỳ, đã tiến hành kiểm tra 304 đảng viên có dấu hiệu vi phạm, quan kiểm tra đã tiến hành xử lý kỷ luật 141 đảng viên, trong đó có 5 đồng chí cán bộ đảng viên thuộc diện Tỉnh ủy quản lý, 74 cán bộ do Huyện ủy quản lý và 62 cán bộ do cơ sở quản lý; với hình thức kỷ luật khiển trách 46 đồng chí, cảnh cáo 42 đồng chí, cánh chức 20 đồng chí và khai trừ 33 đồng chí, đồng thời ngành kiểm tra của Đảng bộ huyện cũng đã giải quyết kịp thời các đơn thư khiếu nại tố cáo ở 17/17 đơn vị.
Công tác xây dựng chính quyền, mặt trận, đoàn thể nhân dân ở các cấp được tăng cường, năng lực quản lý được nâng lên rõ rệt. Đặc biệt là từ khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về phát huy quyền làm chủ của nhân dân và về chiến lược cán bộ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIV vẫn còn một số hạn chế như: chưa phát huy tốt nội lực, chưa khai thác đúng mức tiềm năng, thế mạnh của địa phương, còn lúng túng, chậm trễ trong thực hiện chuyển dịch cơ cấu, tiến độ xóa đói giảm nghèo còn chậm; trên lĩnh vực văn hóa xã hội còn nhiều vấn đề bức xúc, đời sống nhân dân vẫn còn nhiều khó khăn; nền quốc phòng toàn dân phát triển chưa toàn diện, thiếu vững chắc, vận hành cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, cơ quan quân sự làm tham mưu ở xã chưa đồng bộ; hoạt động của mặt trận và các hội đoàn thể còn nặng về hành chính, nội dung, phương pháp, hình thức vận động quần chúng còn nghèo nàn và lúng túng. Công tác xây dựng Đảng vẫn còn những hạn chế nhất định trong công tác giáo dục chính trị tư tưởng, qui hoạch, đào tạo cán bộ, trong đấu tranh tự phê bình và phê bình.
Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương và tỉnh về tổ chức Đại hội các cấp, tiến tới Đại hội IX của Đảng, từ ngày 9 đến ngày 12.10.2000, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Trà My lần thứ XV(1), nhiệm kỳ 2000-2005 được tiến hành tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện. Tham dự có 164/179 đại biểu chính thức của 45 tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc Đảng bộ huyện. Về dự và chỉ đạo đại hội có đồng chí Nguyễn Hữu Mai- Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy.
Đại hội đã nêu cao tinh thần đoàn kết, đổi mới, dân chủ, phát huy trí tuệ tập thể và ý thức trách nhiệm. Đại hội thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XIV; Báo cáo kiểm điểm công tác lãnh, chỉ đạo của Ban Chấp hành; Báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng; Báo cáo tổng hợp ý kiến tham gia đóng góp vào dự thảo các văn kiện Đại hội IX của Đảng, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII.
Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ của Đảng bộ nhiệm kỳ 2000-2005, trong đó gồm một số chỉ tiêu chủ yếu sau: Tổng thu nhập kinh tế toàn huyện tăng bình quân hằng năm 5 % - 8%; đến năm 2005, tổng sản lượng lương thực đạt 16.000 tấn; giảm tỷ lệ hộ đói nghèo mỗi năm từ 5 - 7 %. Đến năm 2005 phấn đấu giảm hộ đói nghèo xuống còn 13 %; khai hoang ruộng nước mỗi năm đạt 45 - 50 ha; trồng quế bình quân mỗi năm đạt 500.000 - 700.000 cây (quế Trà My); mở mới đường ô tô đến trung tâm 7 xã trong huyện, nâng tổng số lên 17 xã có đường ô tô đến trung tâm xã; đưa lưới điện quốc gia và điện thoại đến trung tâm 10 xã; thu ngân sách trên địa bàn huyện bình quân mỗi năm tăng 10 %; huy động học sinh trong độ tuổi ra lớp mỗi năm đạt 85 % trở lên; giảm tỷ lệ tăng dân số mỗi năm dưới 2 %; xây dựng thôn, nóc văn hóa đạt 43-51 thôn và 1/3 số thôn đạt tiêu chuẩn thôn văn hóa; xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh hàng năm đạt 60 % trở lên. Đến năm 2005 phấn đấu phát triển từ 350 đảng viên trở lên; đảm bảo công tác tuyển quân hàng năm đạt 100 %; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ 3,3 % so với dân số.
Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XV, nhiệm kỳ 2000-2005 gồm 33 đồng chí, bầu Ban Thường vụ Huyện ủy gồm 11 đồng chí. Đồng chí Huỳnh Tấn Sâm được bầu lại làm Bí thư; đồng chí Đinh Mướk và đồng chí Nguyễn Thành Vân được bầu lại làm Phó Bí thư; bầu đoàn đại biểu Đảng bộ huyện đi dự Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII gồm 13 đồng chí.
Trên cơ sở các nghị quyết của Trung ương, tỉnh, Ban Thường vụ Huyện ủy đã cụ thể hóa thành các nghị quyết về phương hướng nhiệm vụ hàng năm và nhiều nghị quyết chuyên đề khác, nhờ đó đã lãnh đạo thực hiện các mặt công tác đạt những thành tựu quan trọng.
Trên lĩnh vực nông- lâm nghiệp: huyện đã tập trung đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, con vật nuôi, chuyển giao khoa học kỹ thuật, chuyển mạnh phát triển cây lúa nước từ 1 vụ sang 2 vụ ở các xã vùng trung, cao. Đến năm 2002, toàn huyện có trên 700 ha lúa sản xuất 2 vụ (riêng vùng cao có 163/280 ha). Diện tích ruộng khai hoang, hệ thống thủy lợi được mở rộng. Trong hai năm 2001-2002, mặc dù thời tiết nắng hạn ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất, nhưng sản lượng lương thực vẫn đạt ở mức 26.604 tấn; chăn nuôi ổn định. Chương trình cải tạo vườn tạp được triển khai làm thí điểm tại xã Trà Dương và thị trấn, bước đầu thu hút 100 hộ tham gia cải tạo 60 ha.
Phong trào nuôi cá nước ngọt được nhân dân tiếp tục hưởng ứng, năm 2002, huyện đã hỗ trợ cho nhân dân các địa phương 70.000 con giống, nhiều hộ tích cực đầu tư, mở rộng diện tích ao nuôi, đem lại thu nhập đáng kể.
Hoạt động sản xuất lâm nghiệp và định canh định cư triển khai có hiệu quả. Năm 2002, qua kiểm tra, huyện đã xử lý 117 vụ vi phạm Luật quản lý bảo vệ rừng, giảm 85 vụ so với năm 2001. Đồng thời tiến hành gieo ươm, chăm sóc tốt 289.000 cây giống các loại; trồng mới 120 ha rừng trong chương trình 661 tại thị trấn Trà My và xã Trà Dương; công tác khoanh nuôi tái sinh và quản lý bảo vệ trên diện tích 4.800 ha rừng được tiến hành thường xuyên. Thực hiện tốt dự án bảo tồn giống quế địa phương, tiến hành chăm sóc tại 9 vườn với 350.000 cây giống, ngoài ra nhân dân tự gieo ươm được trên 200.000 cây.
Kinh tế trang trại, kinh tế vườn được mở rộng cả về quy mô và số lượng. Năm 2002, huyện phát triển thêm được 5 trang trại với diện tích 131 ha, nâng tổng số trang trại toàn huyện lên 25 trang trại với diện tích 485 ha.
Chương trình định canh định cư thực hiện đảm bảo tiến độ. Huyện đã tiến hành bàn giao và đưa vào sử dụng các công trình xây dựng cơ bản như công trình thuỷ lợi, cầu, đường giao thông nông thôn. Năm 2001, đầu tư xây dựng 4 công trình thủy lợi, 2 trường học, 2 công trình nước tự chảy và 5 km giao thông nông thôn; năm 2002, di dời 93 hộ ổn định lâu dài, đầu tư xây dựng 9,3 ha vườn hộ, hỗ trợ khai hoang 10 ha....với tổng vốn đầu tư là 1.531,6 triệu đồng
Xây dựng cơ bản đã huy động các nguồn vốn đầu tư, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Năm 2001, toàn huyện huy động được là 42,3 tỷ động, tăng 1,2 lần so với năm 2000; năm 2002 huy động tăng lên hơn 50 tỷ đồng, hoàn thành 32 km đường nhựa Trà My- Tắk Pỏ.
Sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp từng bước phát triển, nhất là điện thương phẩm, các ngành nghề như mộc, rèn, may mặc.
Trên lĩnh vực văn hóa xã hội có nhiều tiến bộ. Trước hết, về giáo dục- đào tạo luôn được huyện ủy quan tâm chỉ đạo thường xuyên. Chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý được nâng lên. Cơ sở vật chất, trang thiết bị từng bước được đáp ứng. Mạng lưới trường lớp được củng cố và phát triển, số lớp và số học sinh đều tăng. Kỳ thi tốt nghiệp các cấp được tổ chức tốt. Năm 2001, tỷ lệ tốt nghiệp tiểu học đạt 95,9%, trung học cơ sở đạt 99,23 %, phổ thông trung học đạt 86,4% và bổ túc văn hóa đạt 94,8%; năm 2002, tỷ lệ tốt nghiệp tiểu học đạt 96 %, trung học cơ sở đạt 99,3 %.
Phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao được duy trì với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, tạo không khí vui tươi, phấn khởi, động viên tinh thần cán bộ, đảng viên và nhân dân hăng hái thi đua lao động sản xuất và thực hiện tốt nghĩa vụ công dân. Công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở đạt kết quả. Năm 2001, huyện phát động xây dựng 6 thôn văn hóa, năm 2002 phát động thêm 8 thôn nâng tổng số thôn bản văn hóa toàn huyện lên 42 thôn, đạt 100 % kế hoạch. Trong đó, riêng năm 2002, qua tiến hành kiểm tra, Ban chỉ đạo xây dựng thôn bản văn hóa tỉnh công nhận 3 thôn văn hóa đạt tiêu chuẩn cấp tỉnh, 10 thôn văn hóa đạt tiêu chuẩn cấp huyện, 32 cơ quan văn hóa và 2.259 hộ đạt danh hiệu gia đình văn hóa.
Các chương trình y tế quốc gia về bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều chuyển biến. Công tác tuyên truyền, giáo dục nhân dân về ý thức phòng dịch bệnh và bảo vệ môi trường sống được chú trọng. Công tác kiểm tra, phát hiện các dịch bệnh được tiến hành thường xuyên, đặc biệt là đã khống chế được bệnh sốt rét. Cơ sở vật chất phục vụ khám chữa bệnh được chú trọng đầu tư, mạng lưới y tế cơ sở được củng cố. Đến năm 2002, toàn huyện có 116/116 thôn có y tế thôn bản và 100 % số xã, thị trấn có nữ hộ sinh. Đặc biệt, ngày 20.1.2003, Huyện ủy ban hành Chương trình hành động thực hiện Chỉ thị 06- CT/TW, ngày 22.1.2002 của Bộ Chính trị (khóa IX) “về việc củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở”. Đây là cơ sở để tiếp tục đẩy mạnh công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân trong những năm đến.
Công tác dân số- gia đình- trẻ em có nhiều tiến bộ, đến năm 2002, huyện đã hoàn thành đợt 4 và đợt 5 chiến dịch đưa dịch vụ chăm sóc sức khỏe và kế hoạch hóa gia đình đến vùng khó khăn 22/22 xã, thị trấn đạt kết quả tốt. Tổ chức nhiều đợt truyền thông lồng ghép các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình gắn với vận động nhân dân xóa bỏ các tập tục lạc hậu, không sinh con thứ 3. Các chỉ tiêu về dân số đều đạt và vượt so với kế hoạch đề ra, tổng các biện pháp tránh thai đạt 103 %, tỷ lệ sinh con thứ 3 giảm 3,97 % so với năm 2001. Trong năm, huyện đã tiến hành sơ kết 2 năm thực hiện Chỉ thị 55-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về tăng cường lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác chăm sóc- giáo dục trẻ em; tổng kết 10 năm thi hành Luật bảo vệ- chăm sóc- giáo dục trẻ em và tổng kết 3 năm thực hiện Quyết định 134 của Thủ tướng Chính phủ về chương trình hành động bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt giai đoạn 1999-2002.
Lĩnh vực bưu chính - viễn thông đạt được một số thành tựu đáng kể. Năm 2001, Bưu điện huyện phát triển mới trên 100 máy; Năm 2002, phát triển thêm 160 máy cố định, nâng tổng máy cố định lên 612 máy, phục vụ cho 8/22 xã, thị trấn, từng bước đảm bảo nhu cầu thông tin, liên lạc trên địa bàn và phục vụ kịp thời sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương(1).
Công tác chăm lo đời sống gia đình chính sách và đối tượng xã hội được đặc biệt quan tâm. Các chế độ, chính sách liên quan đến người có công được triển khai thực hiện theo đúng tinh thần chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Thường xuyên tổ chức các hoạt động “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”, kịp thời thăm hỏi, động viên, tặng quà, tặng sổ tiết kiệm cho các gia đình thương binh- liệt sĩ, bà mẹ Việt Nam Anh hùng, người tàn tật, neo đơn. Riêng năm 2002, huyện đã hoàn chỉnh thủ tục trình cấp thẩm quyền xem xét công nhận 508/608 hồ sơ hoạt động kháng chiến, 23/25 hồ sơ thương binh, 4 hồ sơ liệt sĩ, 11/12 hồ sơ tù đày, tiến hành quy tập 13 mộ liệt sĩ về nghĩa trang huyện. Ban hành đề án xóa đói giảm nghèo đến năm 2005 và những năm tiếp theo. Đặc biệt, nhân kỷ niệm 55 năm ngày Thương binh- Liệt sĩ (27.7.1947-27.7.2002), ngày 9.5.2002, Huyện ủy Trà My ban hành Thông tri số 14-TT/HU, về việc Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng và phong trào " đền ơn đáp nghĩa trong giai đoạn mới".
Công tác giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội luôn được giữ vững. Công tác đấu tranh phòng chống các loại tội phạm hình sự, kinh tế có nhiều cố gắng; ngăn chặn có hiệu quả tình trạng khai thác lâm- khoáng sản trái phép và sử dụng thuốc nổ, hóa chất độc hại, bảo vệ có hiệu quả môi trường sinh thái, nhất là rừng đầu nguồn.
Công tác quốc phòng luôn được chú trọng, trong đó đáng chú ý là ngày 23.10.2001, Huyện ủy đã ban hành Chỉ thị số 06-CT/HU về việc tăng cường lãnh đạo công tác quốc phòng địa phương trong tình hình mới. Ngày 4.1.2002, Huyện ủy ra Chỉ thị 07-CT/HU về nhiệm vụ Quốc phòng năm 2002 và triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 03-NQ/TU của Tỉnh ủy Quảng Nam về xây dựng Quảng Nam thành khu vực phòng thủ cơ bản, liên hoàn vững chắc, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, góp phần phát triển kinh tế xã hội của địa phương”.
Cùng với những thành tựu trong phát triển kinh tế- xã hội, tăng cường an ninh quốc phòng, Đảng bộ rất chú trọng tới việc lãnh đạo nâng cao chất lượng hoạt động của các hội, đoàn thể nhân dân. Năm 2001, Huyện ủy lãnh đạo thành công Đại hội Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Trà My lần thứ XI, nhiệm kỳ 2001-2005. Tiếp đến, năm 2002 lãnh đạo Đại hội Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh huyện lần thứ XII, Đại hội Hội Nông dân huyện lần thứ VII, Đại hội đại biểu Hội Cựu chiến binh huyện lần thứ III và tổ chức tổng kết 5 năm (1997-2002) thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết, xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”.
Công tác xây dựng Đảng được đẩy mạnh. Đi đôi với việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Đảng bộ huyện tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu- lần 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng có nhiều cố gắng, việc triển khai, quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp. Đặc biệt, thực hiện thông báo 71-TB/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về việc tăng cường lãnh đạo đổi mới công tác tuyên truyền miệng, huyện ủy ban hành Chỉ thị số 09- CT/HU, ngày 22.8.2002 về việc thành lập Ban Tuyên giáo xã, thị trấn, tuyên huấn các ngành, đoàn thể và tổ chức đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên của Đảng, góp phần đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với quần chúng.
Công tác nghiên cứu, biên soạn Lịch sử Đảng bộ được đẩy mạnh, trong đó đáng chú ý là huyện đã triển khai biên soạn Lịch sử Đảng bộ huyện Trà My giai đoạn 1945-2003.
Công tác tổ chức cán bộ chuyển biến mạnh mẽ, ngày 18.3.2002, Huyện ủy tổ chức hội nghị tổng kết việc thực hiện các nghị quyết của Trung ương về công tác tổ chức và công tác cán bộ trên địa bàn huyện thời gian qua.
Về kết quả đạt được, hội nghị nêu rõ: Kể từ khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương (khóa VII), đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII), công tác cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt luôn được coi trọng. Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo, tạo sự chuyển biến quan trọng, đảm bảo sự đồng bộ giữa đội ngũ cán bộ các vùng. Công tác qui hoạch đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá tuyển chọn, sử dụng và bố trí cán bộ được thực hiện nghiêm túc, đúng qui trình theo hướng dẫn của Trung ương và Tỉnh ủy. Huyện đã chủ động tuyển chọn học sinh trung học ở các trường nội trú huyện và tỉnh để đưa đi đào tạo, từng bước bổ sung vào đội ngũ cán bộ các cấp. Từ năm 1992 đến nay, huyện đã đào tạo 282 lượt cán bộ, đảng viên trên các lĩnh vực: pháp luật, lý luận chính trị, quản lý kinh tế, quản lý nhà nước, y tế, giáo dục...
Nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII) về chiến lược cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, lãnh đạo huyện, các ngành, cơ sở đã chủ động quy hoạch, sắp xếp, bố trí cán bộ phù hợp với năng lực công tác và từng bước đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới.
Tuy nhiên, Hội nghị cũng đã nêu lên một số tồn tại hạn chế như: Vai trò lãnh đạo của một số cấp ủy Đảng còn hạn chế; công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ nữ còn chậm; công tác sắp xếp tại tổ chức bộ máy và tinh giản biên chế thực hiện chưa đạt yêu cầu; chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, nhất là cán bộ lâu năm ở miền núi chưa được thực hiện tốt..
Tiếp tục triển khai thực hiện các Nghị quyết của Trung ương về công tác cán bộ, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII), ngày 28.5.2002, Huyện ủy Trà My ban hành Nghị quyết số 03-NQ/HU “về chiến lược công tác cán bộ giai đoạn 2002-2010". Về phương hướng xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ của huyện đến năm 2010, mà trước mắt là giai đoạn 2002-2005, Nghị quyết nêu rõ:
- Gắn đào tạo với bồi dưỡng ngắn ngày, giữa nâng cao trình độ đi đôi với năng lực thực tiễn.
- Chuẩn bị nhân sự khi có chủ trương chia tách huyện theo hướng tinh gọn, chất lượng, hiệu quả.
- Bảo đảm hàng năm có 20% cán bộ chủ chốt xã, thị trấn được đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, kiến thức về quản lý Nhà nước, chuyên môn nghiệp vụ. Đến cuối năm 2005, có 100% cán bộ chủ chốt xã đạt trình độ học vấn tốt nghiệp cấp II trở lên và trung cấp chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị. Riêng đối với cán bộ các xã Trà Đông, Trà Dương, Trà Giang, Trà Tân và thị trấn phải có 40-50% cán bộ đạt trình độ học vấn cấp III và 35-40% trung cấp về chuyên môn và cao cấp lý luận chính trị trở lên.
- Phấn đấu có 65-70 % đội ngũ cán bộ huyện đạt trình độ trung cấp trở lên, để tạo tiền đề đến cuối năm 2010, có trên 70 % đội ngũ cán bộ trưởng, phó phòng ban, đoàn thể và tương đương dưới 45 tuổi đạt trình độ đại học chuyên môn và trình độ cao cấp lý luận chính trị trở lên.
Thực hiện Quy định 76- QĐ/TW, ngày 15.6.2000 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về việc đảng viên đang công tác ở cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp thường xuyên giữ mối liên hệ với chi ủy, đảng ủy cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú, ngày 9.5.2001, Huyện ủy có Thông tri số 07-TT/HU về việc tổ chức thực hiện Quy định 76 của Bộ Chính trị. Có thể nói đây đây là chủ trương đúng đắn, góp phần tạo sự thống nhất cao trong Đảng và thắt chặt thêm mối quan hệ, gần gũi với quần chúng nhân dân.
Hoạt động kiểm tra Đảng thực hiện chặt chẽ theo Điều lệ Đảng và Chỉ thị 29-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Ủy ban kiểm tra Huyện ủy đã tổng kết công tác kiểm tra nhiệm kỳ 1996-2000 và xây dựng qui chế làm việc nhiệm kỳ 2000-2005. Kết quả kiểm tra năm 2001 có 2 tổ chức Đảng và 25 đảng viên có dấu hiệu vi phạm và đã tiến hành xử lý 14 đảng viên.
Một sự kiện nổi bật ở huyện Trà My trong những tháng đầu năm 2001 là vào ngày 27.3, huyện ủy Trà My tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm 30 năm chiến thắng cứ điểm xã Đốc (nay thuộc xã Trà Đốc), giải phóng hoàn toàn Trà My (27.3.1971-27.3.2001). Đây là lần đầu tiên huyện tổ chức lễ mít tinh kỷ niệm chiến thắng cứ điểm xã Đốc, đồng thời là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân toàn huyện, qua đó nhằm ôn lại truyền thống hào hùng, ý nghĩa chiến thắng cứ điểm xã Đốc của Tiểu đoàn đặc công 409 anh hùng và của đồng bào các dân tộc huyện Trà My. Nhân dịp này, Huyện ủy đã phát hành tập san “ Trà My-30 năm một chặng đường”.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng trên địa bàn huyện, ngày 23.10.2001, Huyện ủy Trà My đã triển khai Chương trình hành động cụ thể của Đảng bộ huyện gồm một số nội dung cơ bản sau:
- Phát triển nông nghiệp toàn diện gắn thực hiện định canh định cư và xây dựng nông thôn mới.
- Phát triển công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp- dịch vụ và du lịch đi đôi với khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và xây dựng củng cố quan hệ sản xuất.
- Thực hiện về công tác quản lý ngân sách, đảm bảo nguồn vốn đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế- xã hội.
- Phát huy nguồn lực, trọng tâm là giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, chăm lo sức khỏe nhân dân, thực hiện chính sách xã hội, giảm nhanh tỷ lệ hộ đói nghèo.
- Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện
- Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
Thực hiện Chỉ thị 04-CT/TU, ngày 30.10.2001 của Tỉnh ủy Quảng Nam về tập trung lãnh đạo thực hiện các chương trình kinh tế nông- lâm- thủy sản trong những năm 2002-2006, ngày 10.1.2002, Huyện ủy ban hành Thông tri 11-TT/HU về việc tập trung lãnh đạo thực hiện các chương trình kinh tế nông- lâm- thủy sản trên địa bàn huyện. Trong đó mục tiêu trọng tâm là đẩy mạnh phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại; phát triển thủy lợi nhỏ và kiên cố hóa kênh mương; phát triển thủy sản...
Sau gần 3 năm triển khai thực hiện Chương trình 135/CP của Chính phủ trên địa bàn huyện tuy bước đầu đạt được một số kết quả, song vẫn còn nhiều hạn chế trong quá trình tổ chức thực hiện. Để khắc phục những hạn chế đó, ngày 22.1.2002, Huyện ủy Trà My ban hành Chỉ thị 08-CT/HU về việc đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả Chương trình 135 của Chính phủ về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trên địa bàn huyện trong những năm đến. Trong đó chú trọng việc củng cố, phát huy vai trò trách nhiệm và tăng cường hoạt động của Ban quản lý dự án; thực hiện nghiêm túc qui trình công khai, dân chủ trong việc thực hiện các hạng mục công trình, dự án Chương trình. Thực hiện tốt phương châm “ Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, “Xã có công trình, dân có việc làm, tăng thu nhập”. Sau khi có chỉ thị, việc triển khai Chương trình 135/CP trên địa bàn huyện đạt được một số kết quả khả quan. Đến năm 2003, số vốn được đầu tư cho dự án xây dựng cơ sở hạ tầng và xây dựng trung tâm cụm xã hơn 48 tỷ đồng; dự án ổn định sản xuất nông lâm nghiệp gắn liền với chế biến tiêu thụ sản phẩm với số vốn trên 650 triệu đồng và dự án hỗ trợ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn với số vốn hơn 1,1 tỷ đồng. Trong đó, đã đầu tư xây dựng và mở mới trên 30 công trình giao thông, đưa số xã có đường ô tô đến trung tâm xã là 15/22 xã, thị trấn; xây dựng 6 công trình thuỷ lợi, nâng tổng số diện tích lúa nước được tưới tiêu lên 40 ha; xây dựng được 41 phòng học các loại. Ngoài ra, chương trình 135 còn đầu tư xây dựng 1 nhà đặt trậm phát lạI truyền hình, 1 trạm y tế, trường phổ thông dân tộc nội trú ở trung tâm cụm xã Tắc Chanh, xã Trà Don và trung tâm cụm xã Tắc Pỏ, xã Trà Mai... Nhờ vậy đã đáp ứng một phần bức xúc về cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã đặc biệt khó khăn, tạo điều kiện hỗ trợ xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn phát triển.
Thực hiện Chỉ thị 359/TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường bảo vệ và phát triển động vật hoang dã và Pháp lệnh bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, ngày 14.1.2002, Huyện ủy ban hành Thông tri số 12-TT/HU về việc tăng cường công tác bảo vệ, quản lý động vật hoang dã qúy hiếm và nghiêm cấm dùng chất độc, chất nổ, xung điện đánh bắt thủy sản. Đây là biện pháp nhằm góp phần bảo vệ nguồn tài nguyên rừng và thủy sản, bảo vệ môi trường sinh thái.
Trước tình hình phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc ở một số nơi, một số lĩnh vực chưa đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, nhất là trên lĩnh vực quản lý lâm- khoáng sản, mua bán, vận chuyển hóa chất độc hại, dịch vụ văn hoá, tôn giáo, hoạt động tội phạm còn phức tạp, gây lo lắng trong nhân dân, ngày 5.3.2002, Huyện ủy Trà My ban hành Chỉ thị số 10/CT-HU “về việc lãnh đạo, xây dựng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới". Đây là chủ trương nhằm phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc trên mặt trận bảo vệ an ninh Tổ quốc, giữ vững, ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở địa phương và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện Nghị định số 27/CP, ngày 21.3.2002 của Chính phủ về việc chia tách một số đơn vị hành chính, theo đó, xã Trà Giáp được chia thành hai đơn vị hành chính gồm xã Trà Giáp và xã Trà Ka. Sau khi chia tách, Huyện ủy có quyết định thành lập Đảng bộ lâm thời xã Trà Giáp và chi bộ lâm thời xã Trà Ka.
Ngày 2.5.2002, Chủ tịch nước ký quyết định tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba cho cán bộ và nhân dân huyện Trà My vì đã có thành tích xuất sắc trong các mặt công tác, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đây là niềm cỗ vũ lớn lao, góp phần động viên cán cộ, đảng viên và nhân dân trong huyện vượt qua khó khăn, hoàn thành tốt các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội địa phương trong những năm đến.
Ngày 20.5.2002, Huyện ủy Trà My ban hành Thông tri số 16/TT-HU về việc "lãnh đạo thực hiện cuộc vận động xây dựng người cán bộ, công chức, viên chức "Trung thành - sáng tạo - tận tụy - gương mẫu". Đây là một cuộc vận động mang tính thiết thực nhằm xây dựng người cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong thời kỳ cách mạng mới.
Thực hiện Qui định 19-QĐ/TW của Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm, ngày 20.8.2002, Huyện ủy Trà My tổ chức hội nghị đánh giá kết quả kiểm tra việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện qui định về những điều đảng viên không được làm. Chủ trương này của Trung ương đã được các cấp ủy Đảng cũng như nhân dân rất tán thành và nhất trí cao. Kết quả kiểm tra cho thấy việc thực hiện qui định về những điều đảng viên không được làm đã góp phần nâng cao tính kỷ luật của Đảng, mỗi đảng viên chấp hành nghiêm các nội dung của quy định sẽ tạo nên sức mạnh đoàn kết thống nhất cũng như tăng cường sự trong sạch vững mạnh của tổ chức Đảng. Tuy nhiên, một số tổ chức cơ sở Đảng trong quá trình triển khai thực hiện Qui định 19 chưa sâu rộng, thiếu sự kiểm tra đôn đốc thực hiện, một số đảng viên nhận thức về những điều đảng viên không được làm còn mơ hồ, chấp hành không nghiêm túc dẫn đến vi phạm.
Ngày 22.8.2002, Huyện ủy Trà My có Quyết định số 507- QĐ/HU về việc ban hành qui chế tổ chức lễ tang đối với cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước; cán bộ xã, thị trấn; người có công với cách mạng khi từ trần. Việc ban hành qui chế là góp phần thực hiện Chỉ thị 27- CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội, thể hiện sự trân trọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với công lao, công hiến của cán bộ, công chức, viên chức và những người có công với cách mạng trong quá trình hoạt động cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vừa tiết kiệm, vừa phù hợp với truyền thống của dân tộc và nếp sống văn minh.
Tiếp tục thực hiện các nghị quyết của Trung ương Đảng về công tác dân vận, mặt trận đoàn thể, dân tộc, tôn giáo trong thời kỳ mới, ngày 26.8.2002, Huyện ủy Trà My tổ chức hội nghị tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) và đề ra phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp công tác dân vận đến năm 2005. Trên cơ sở kết quả đạt được, hội nghị đề ra phương hướng nhiệm vụ đến năm 2005 bao gồm một số nội dung sau:
- Tiếp tục quán triệt các quan điểm của Đảng về công tác vận động quần chúng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng ( khoá VI). Tập trung vận động nhân dân hăng hái thi đua thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế- xã hội.
- Phát huy sức mạnh tổng hợp của công tác dân vận trong hệ thống chính trị, tăng cường thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân, tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của mặt trận và các đoàn thể.
- Tăng cường sâu sát cơ sở, tiếp xúc lắng nghe ý kiến nguyện vọng nhân dân, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân, thống nhất ý chí hành động, củng cố mở rộng cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, đoàn kết quyết tâm xây dựng quê hương giàu mạnh.
Thực hiện Nghị quyết 02- NQ/TU của Tỉnh ủy Quảng Nam về xây dựng và phát triển giao thông nông thôn trên địa bàn tỉnh, ngày 6.11.2002, Huyện ủy đề ra Chương trình hành động về đẩy mạnh phát triển giao thông nông thông trên địa bàn huyện trong những năm đến, trong đó tập trung:
- Từng bước hoàn thiện qui hoạch tổng thể và qui hoạch chi tiết hệ thống giao thông nông thôn trong qui hoạch phát triển cơ sở hạ tầng. Đảm bảo cho các loại xe cơ giới hoạt động thường xuyên trên tuyến Trà My- Tắk Pỏ và các tuyến đường huyện, phục vụ nhu cầu đi lại, đời sống của đồng bào vùng sâu, vùng xa.
- Tiếp tục tạo ra sự chuyển biến tư tưởng, nhận thức về tầm quan trọng của giao thông nông thôn miền núi trong toàn Đảng bộ, phát huy tinh thần nội lực, đẩy mạnh phong trào giao thông nông thôn với phương châm “ Nhà nước và nhân dân cùng làm”.
- Phát triển giao thông nông thôn gắn liền với phát triển kinh tế- văn hóa- xã hội, quốc phòng an ninh, với các chương trình mục tiêu quốc gia, góp phần hỗ trợ đắc lực cho chương trình xóa đói giảm nghèo, định canh định cư, phát triển nông nghiệp và nông thôn tại địa phương.
Nhằm đẩy mạnh thực hiện các Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX), ngày 6.11.2002, Huyện ủy có Chương trình hành động số 13- Ctr/HU “về đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, giai đoạn 2002-2005 và 2010, Chương trình hành động số 14/Ctr-HU “về đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị cơ sở xã, thị trấn” và Chương trình hành động số 15/Ctr-HU, ngày 20.12.2002, về "Nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới” (1).
Ngày 20.6.2002, Huyện uỷ Trà My đã tổ chức Hội nghị nhằm để tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) và Kết luận của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về giáo dục- đào tạo.
Báo cáo tại hội nghị cho thấy sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII), mạng lưới trường lớp tiếp tục mở rộng; tỷ lệ trẻ em 6 tuổi vào lớp 1 trong năm học 2001-2002 đạt 97,8 %, tăng 11 % so với năm học 1997-1998; số lượng lớp và học sinh tăng bình quân 17,4 %; chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên, công nhân viên tăng lên đáng kể. Nếu như năm học 1997-1998, toàn huyện có 716 cán bộ, giáo viên, công nhân viên với 37 % đạt chuẩn về chuyên môn, thì đến năm học 2001-2002 toàn huyện có 1.113 cán bộ, giáo viên, công nhân viên, trong đó có 83 % đạt chuẩn về chuyên môn, tăng 46 %.
Chất lượng giáo dục có sự chuyển biến tích cực, nhiều hình thức, phương pháp, biện pháp giáo dục đa dạng, phong phú. Đối với bậc tiểu học, các trường đều triển khai dạy đủ 9 môn. Huyện đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học ở 22/22 xã, thị trấn. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp hàng năm đạt trên 95 %; đối với bậc trung học, số học sinh ngày càng tăng. Trong 5 năm, toàn huyện có 860 học sinh tốt nghiệp, trong đó có trên 200 học sinh đổ vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp.
Việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị được chú trọng. Trong 5 năm, toàn huyện đã đầu tư xây dựng hơn 60 phòng học bán kiên cố, 74 phòng học kiên cố với trị giá gần 8 tỷ đồng.
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và xây dựng Đảng trong trường học được Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo thường xuyên. Nếu như năm 1997, toàn ngành giáo dục huyện có 69 đảng viên, chiếm tỷ lệ 9,6 %, đến năm 2002, toàn ngành có 147 đảng viên, đạt tỷ lệ 13,2 %. Địa phương làm tốt nhất công tác này là thị trấn Trà My, xã Trà Tập, Trà Mai và Trà Dương.
Tuy nhiên, Hội nghị cũng nêu một số tồn tại như: một số chỉ tiêu chưa đạt; chỉ số huy động và duy trì sỹ số học sinh ở các xã vùng trung, vùng cao có thời điểm còn thấp; kết quả phổ cấp giáo dục tiểu học và xóa mù chữ chưa vững chắc; chất lượng giáo dục chưa cao, công tác quản lý còn nhiều bất cập; việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất còn hạn chế; công tác phát triển Đảng trong trường học tuy có nhiều cố gắng nhưng tỷ lệ vẫn còn thấp...
Những thành tựu đạt được và những hạn chế của công tác giáo dục đào tạo trong 5 năm qua là cơ sở để Đảng bộ tiếp tục chỉ đạo ngành giáo dục huyện tổ chức thực hiện có kết quả các chỉ tiêu, nhiệm vụ trong những năm đến, thúc đẩy sự nghiệp giáo dục đào tạo của địa phương ngày càng phát triển.
Một trong những sự kiện quan trọng của Đảng bộ Trà My trong năm 2003 là lãnh đạo thực hiện tốt việc chia tách huyện theo Nghị định số 72/2003/NĐ-CP, ngày 20.6.2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc chia huyện Trà My thành hai đơn vị hành chính mới là huyện Nam Trà My và Bắc Trà My. Việc chia tách huyện Trà My là phù hợp với yêu cầu và nguyện vọng chính đáng của Đảng bộ, nhân dân địa phương, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng của huyện Nam Trà My và Bắc Trà My
Huyện Bắc Trà My có diện tích tự nhiên gồm 82.325 ha với dân số là 36.366 nhân khẩu, có 12 đơn vị hành chính trực thuộc gồm: Trà Đông, Trà Dương, Trà Giang, Trà Nú, Trà Kót, Trà Tân, Trà Đốc, Trà Bui, Trà Giác, Trà Giáp, Trà Ka và thị trấn Trà My. Huyện lỵ đặt tại thị trấn Trà My.
Huyện Nam Trà My có diện tích tự nhiên gồm 82.235 ha với dân số 19.876 nhân khẩu, có 10 đơn vị hành chính trực thuộc gồm: Trà Don, Trà Leng, Trà Vân, Trà Vinh, Trà Tập, Trà Dơn, Trà Nam, Trà Cang, Trà Mai và Trà Linh. Huyện lỵ đặt tại Tăk Pỏ, xã Trà Mai
Để triển khai và thực hiện Nghị định 72/2003/NĐ-CP kịp thời và đạt kết quả, ngày 7.7.2003, Huyện ủy Trà My ban hành Chỉ thị 13/CT-HU về việc lãnh đạo các cấp ủy Đảng, chính quyền, hội đoàn thể từ huyện đến cơ sở thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm và cấp bách.
Ngày 15.7.2003, Tỉnh ủy Quảng Nam ra quyết định chỉ định Ban chấp hành Đảng bộ lâm thời huyện Bắc Trà My và huyện Nam Trà My. Ban chấp hành Đảng bộ lâm thời huyện Bắc Trà My gồm 27 đồng chí, Ban Thường vụ gồm 9 đồng chí, do đồng chí Huỳnh Tấn Sâm làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa- Phó bí thư Thường trực, đồng chí Nguyễn Thành Vân- Phó Bí thư, Chủ tịch ủy ban nhân dân lâm thời huyện. Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời huyện Nam Trà My gồm 27 đồng chí, Ban Thường vụ gồm 9 đồng chí, do đồng chí Đinh Mướk làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Thanh Tòng- Phó Bí thư Thường trực, đồng chí Hồ Văn Ny- Phó Bí thư, Chủ tịch ủy ban nhân dân lâm thời huyện.
Ngày 18.7.2003, Ban Chỉ đạo chia tách huyện đã có hướng dẫn số 03 về việc tuyên truyền và tổ chức lễ tiễn đưa lãnh đạo, cán bộ lên công tác tại huyện Nam Trà My.
Ngày 24.7.2003, lễ công bố Nghị định số 72/2003/NĐ-CP, ngày 20.6.2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc chia huyện Trà My thành hai đơn vị hành chính mới là huyện Nam Trà My và Bắc Trà My được tổ chức trọng thể tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện.
Sáng ngày 1.8.2003, Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban Nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện Bắc Trà My tổ chức lễ tiễn đưa cán bộ, đảng viên huyện Nam Trà My lên công tác tại huyện lỵ mới.
Trong lễ tiễn đưa cán bộ, công chức, chiến sĩ huyện Nam Trà My, đồng chí Huỳnh Tấn Sâm- Bí thư huyện ủy lâm thời huyện Bắc Trà My phát biểu nhấn mạnh: Đảng bộ và nhân dân huyện Bắc Trà My luôn luôn ghi nhớ ơn sâu nghĩa nặng của đồng bào, đồng chí huyện Nam Trà My và đồng bào cả nước đã đùm bọc giúp đỡ, đã cống hiến sức người, sức của cho sự nghiệp cách mạng của quê hương.
Những công trình văn hóa và kinh tế, những con đường mà ta đang đi hôm nay, mỗi ngôi nhà đã được xây dựng trong gần 30 năm qua đều có mồ hôi, công sức của đồng bào, đồng chí Nam Trà My, cũng như của anh em bạn bè gần xa.
Đảng bộ và nhân dân Bắc Trà My luôn luôn thông cảm, sẳn sàng chia sẻ những khó khăn của Đảng bộ và nhân dân Nam Trà My trong thời kỳ đầu xây dựng một đơn vị hành chính mới như chúng ta đã từng chia lửa, góp máu trong chiến đấu.
Chúng ta tin tưởng rằng các cấp ủy Đảng, chính quyền, các đoàn thể, các tổ chức kinh tế và xã hội, cấc tầng lớp nhân dân hai huyện Bắc Trà My và Nam Trà My sẽ có nhiều hình thức giao lưu, kết nghĩa, hợp tác hỗ trợ lẫn nhau để cùng phát triển đi lên.
Với tất cả tình đồng chí chân thành, tình anh em ruột thịt, chúng ta nhiệt liệt chúc mừng và tin tưởng một thời kỳ mới đầy triển vọng đang mở ra với đồng chí, đồng bào huyện Nam Trà My.
" Dù cho sông cạn đá mòn
Trà My Nam- Bắc là con một nhà"
Xin chúc các đồng chí lên đường sức khỏe và thắng lợi !
Tiếp sau lời phát biểu của lãnh đạo huyện Bắc Trà My, đồng chí Đinh Mướk- Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy lâm thời huyện Nam Trà My phát biểu nêu rõ: “Đối với mỗi cán bộ, chiến sĩ huyện Nam Trà My, cuộc chia tay hôm nay là niềm vinh dự lớn lao, là sức mệnh lịch sử cao cả. Chúng ta là những người đi tiên phong lên đường xây dựng quê hương mới... Từ ngày hôm nay, nhiều gia đình có người ở, người đi, nhiều cơ quan có người ở, người đi và có những cộng đồng dân cư co công dân lên đường đi Nam Trà My công tác, mà phía trước là muôn vàn gian lao và thử thách. Mỗi cán bộ, công chức hôm nay lên đường đều có hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh bản thân khác nhau, nhiều gia đình rất khó khăn, nhiều anh chị em phơi phới tuổi thanh xuân, nhưng cũng có anh chị trên đấu đã mang hai thứ tóc. Tuy khó khăn là thế, nhưng khi được sự phân công của tổ chức, các đồng chí đều sẳn sàng lên đường nhận nhiệm vụ. Tôi xin gửi lời biết ơn đến những người mẹ, người cha, người vợ, người chồng, những con đã hy sinh tình cảm riêng tư, động viên người thân lên đường xây dựng quê hương mới Nam Trà My”
Tại buổi lễ trọng thể này, thay mặt Đảng bộ, chính quyền, ủy ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện Nam Trà My xin gửi tới các đồng chí lãnh đạo huyện, đến bà con đồng bào huyện Bắc Trà My niềm tin tưởng của chúng tôi với tình cảm sâu nặng, thủy chung giữa hai huyện chúng ta, Bắc Trà My thật sự là hậu phương bao la và vững chắc.
Chia tay nhé ! Bắc Trà My yêu dấu
Chúng tôi lên đường làm người lính tiên phong
Quê hương mới Nam Trà My vẫy gọi
Bài ca mở đường giục giã non sông
Takxa, TakLeng- Hai dòng sông ranh giới
Chia đôi miền Nam- Bắc Trà My
Có hề chi dù không gian cách biệt
Ta vẫn bên nhau đâu có cuộc chia ly
Xin chào tạm biệt !
Đến dự lễ tiễn đưa cán bộ lên công tác ở huyện Nam Trà My, đồng chí Hồ Thị Thanh Lâm- Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam thay mặt cho lãnh đạo tỉnh phát biểu ý kiến, trong đó nhấn mạnh: Mục tiêu của việc thực hiện chia tách huyện theo Nghị định số 72/2003/NĐ-CP ngày 20.6.2003 của Chính phủ làm nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội của cả tỉnh nói chung và miền núi, vùng cao Trà My nói riêng. Với việc hình thành hai đơn vị hành chính độc lập, sẽ tạo đIều kiện để hai huyện Nam và Bắc Trà My tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đẩy manh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa, thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội, xóa đói giảm nghèo, từng bước ổn định, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.
Để thực hiện được mục tiêu đó, thì dù trong bề bộn những công việc, với không ít khó khăn, vất vả và những nổi lo toan khi xa gia đình trong những ngày đầu mới chia tách, nhưng tôi đề nghị các đồng chí lãnh đạo, cán bộ, công chức, viên chức huyện Nam Trà My phải phát huy mạnh mẽ tinh thần đoàn kết, trên dưới một lòng, quyết tâm, nỗ lực vượt qua khó khăn để nhanh chóng ổn định cuộc sống ở nơi mới, củng cố tổ chức, tập trung chỉ đạo thực hiện hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội năm 2003 trên địa bàn và xây dựng qui hoạch tổng thể về phát triển kinh tế- xã hội của huyện từ năm 2004 đến 2005 và 2010.
Tôi mong rằng với tình cảm gắn bó thân thiết của anh em một nhà, lãnh đạo và các ban ngành, đoàn thể huyện Bắc Trà My sẽ tiếp tục dành cho các ban, ngành, đoàn thể của huyện Nam Trà My sự quan tâm, chia xẻ và sự giúp đỡ chân tình trong điều kiện và khả năng của mình..."
Đúng 10 giờ cùng ngày, lễ đón đoàn cán bộ lên công tác tại huyện mới được tổ chức trọng thể tại Tăk Pỏ, xã Trà Mai (trung tâm huyện lỵ).
Từ đây, tuy Đảng bộ và nhân dân hai huyện bắt tay vào xây dựng quê hương của mình nhưng những tình cảm cùng truyền thống quý báu của huyện Trà My được xây dựng trong suốt chiều dài lịch sử vẫn được hai Đảng bộ và nhân dân hai huyện giữ gìn và phát huy như nguồn lực tinh thần vô giá.
Có thể nói, sau gần 3 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện khóa XV, mặc dù trong điều kiện thời tiết nắng hạn, lũ lụt, dịch bệnh hoành hành tác động không nhỏ đến sản xuất và đời sống nhân dân, song Đảng bộ đã lãnh đạo thực hiện thắng lợi một số mục tiêu do Đại hội Đảng bộ huyện đề ra. Nền kinh tế của huyện có sự tăng trưởng, các tiến bộ khoa học kỹ thuật dẫn dần chuyển giao và áp dụng vào thực tiễn sản xuất, chăn nuôi tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa có giá trị kinh tế; các mô hình kinh tế nông - lâm kết hợp như: kinh tế trang trại, vườn đồi, vườn rừng, trồng cây nguyên liệu (đặc biệt là cây sâm Ngọc Linh và cây quế)...ngày càng khẳng định tính đúng đắn và hiệu quả.
Tốc độ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tăng nhanh, từng bước tạo chuyển biến tích cực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Trên lĩnh vực văn hóa xã hội đạt được nhiều thành tựu: Công tác xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh, chất lượng dạy và học có nhiều chuyển biế; công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng, dịch bệnh lớn không xảy ra, đặc biệt là bệnh sốt rét được khống chế; công tác xây dựng thôn bản văn hóa, cơ quan văn hóa được triển khai thực hiện và đạt kết quả nhất định, góp phần ngăn chặn và từng bước đẩy lùi các tệ nạn xã hội, tập tục lạc hậu, tạo môi trường văn hóa lành mạnh trong cơ quan và cộng đồng dân cư. Các chế độ chính sách liên quan đến người có công và đối tượng xã hội được thực hiện nghiêm túc; hoạt động nhân đạo, từ thiện được các cấp, các ngành quan tâm, từng bước thực hiện xã hội hóa về chăm sóc các đối tượng xã hội.
Lĩnh vực an ninh quốc phòng được giữ vững. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc được phát động mạnh mẽ, giữ vững ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện. Chỉ tiêu tuyển quân hàng năm đạt 100 % kế hoạch.
Hệ thống chính trị tiếp tục được củng cố và kiện toàn; năng lực quản lý, điều hành của các cấp chính quyền, mặt trận, đoàn thể được nâng lên rõ rệt, dân chủ cơ sở được phát huy; vai trò lãnh đạo của Đảng được khẳng định trên mọi mặt đời sống xã hội.
Tuy đạt được một số thành tựu quan trọng, song quá trình triển khai thực hiện nghị quyết vẫn còn một số hạn chế trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương. Kinh tế của huyện tuy có phát triển nhưng chưa vững chắc, còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan, an toàn lương thực chưa đảm bảo; tỷ lệ hộ đói nghèo vẫn còn ở mức cao (41,32%). Chất lượng dạy và học ở các cấp học chưa đều, tình trạng học sinh bỏ học giữa chừng còn chiếm tỷ lệ khá cao (năm học 2001-2002 là 3,17%) nhưng chưa có biện pháp khắc phục hữu hiệu. Y học dân tộc cổ truyền chưa được phát huy đúng mức so với tiềm năng của huyện; còn xem nhẹ việc giữ gìn vệ sinh môi trường, nhất là ở khu vực đông dân cư. Tình trạng săn bắn trái phép động vật hoang dã, qúy hiếm và xung điện hủy diệt nguồn lợi thủy sản vẫn còn xảy ra; ban công an cơ sở ở một số địa phương còn yếu về chuyên môn và ý thức trách nhiệm. Mối quan hệ phối hợp công tác giữa chính quyền, mặt trận, đoàn thể các cấp một số nơi chưa chặt chẽ nên hiệu quả công tác còn hạn chế. Một số cấp ủy Đảng ở cơ sở hoạt động thiếu chương trình, kế hoạch, một số đồng chí lãnh đạo chủ chốt cấp xã còn vi phạm Điều lệ Đảng, các qui định của Nhà nước, gây ảnh hưởng đến uy tín và vài trò lãnh đạo của Đảng tại địa phương.
Những thành tựu đạt được trong thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới (1986-2003) nói chung và từ ngày tỉnh Quảng Nam được tái lập (1997-2003) nói riêng tạo ra thế và lực mới để Đảng bộ và nhân dân Nam Trà My, Bắc Trà My vượt qua khó khăn thử thách trong những năm đến, phấn đấu giành nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa, xứng đáng với truyền thống anh hùng mà Đảng và Nhà nước phong tặng, từng bước xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, phấn đấu vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”